Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Chiến tranh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2025

Ký ức tuồi trẻ về bài thơ Tiểu đội xe không kính

 

KÝ ỨC TUÔI TRẺ VỀ BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

 

Chiến tranh không chỉ có bom rơi, đạn nổ mà còn là những câu chuyện về con người, về tinh thần thép giữa khói lửa. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một khúc tráng ca độc đáo về những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm tháng khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Không tô vẽ hình tượng người lính theo khuôn mẫu bi hùng quen thuộc, bài thơ mang đến một góc nhìn mới – chân thực, gần gũi nhưng không kém phần lẫm liệt.

 

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”

 

Câu thơ mở đầu như một lời giải thích rất tự nhiên, rất ngang tàng. Xe không có kính không phải vì xe không có kính mà vì chiến tranh khốc liệt đã khiến nó vỡ mất rồi.  Chỉ hai câu thơ ngắn nhưng đã vẽ ra một hiện thực chiến tranh đầy khắc nghiệt.

 

Những trận bom đạn của kẻ thù đã phá nát lớp kính bảo vệ, làm biến dạng những chiếc xe, nhưng điều kỳ diệu là những chiếc xe ấy vẫn tiếp tục lao về phía trước với những người lính lái xe tinh thần hiên ngang, không chùn bước trước khó khăn lao xe ra thẳng chiến trường.

 

“Ung dung buồng lái ta ngồi,

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.”

 

Ung dung, thoải mái như thể chẳng có gì đáng bận tâm. Tư thế ấy thể hiện bản lĩnh, khí phách của những người lính trẻ.

Không còn kính xe, tất cả mọi thứ như ùa thẳng vào buồng lái: gió, bụi, sao trời, cánh chim

Những hình ảnh này vừa mang tính hiện thực, vừa gợi lên một vẻ đẹp thơ mộng giữa khung cảnh chiến tranh ác liệt.

 

Câu thơ “Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim” có thể hiểu theo cả nghĩa thực và nghĩa ẩn dụ.

Đó không chỉ là con đường Trường Sơn gian nan mà còn là con đường của lý tưởng, con đường của tình yêu đất nước, đang được những trái tim trẻ tuổi đón nhận một cách tự nguyện.

 

“Không có kính, ừ thì có bụi,

Bụi phun tóc trắng như người già.

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc,

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.”

 

Từng câu, từng chữ trong đoạn thơ này đều mang hơi thở của một tinh thần lạc quan. Bụi đường chiến trường phủ kín mái tóc, làm những chàng trai trẻ bỗng hóa thành “người già” trước tuổi, nhưng thay vì than phiền, họ lại cười ha ha, châm điếu thuốc mà tiếp tục hành trình.

 

Cách nói “ừ thì có bụi” đầy thản nhiên, như thể đây chỉ là một chuyện nhỏ nhặt, không đáng bận tâm. Chính sự hồn nhiên ấy đã làm nổi bật bản lĩnh thép của những người lính trẻ – họ không hề bị khuất phục mà còn đón nhận gian khó bằng thái độ bông đùa.

 

“Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời.

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa,

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”

 

Những cơn mưa rừng dữ dội trút xuống, nhưng họ cũng chẳng màng. “Chưa cần thay”, họ vẫn lái tiếp, vẫn băng băng trên đường. Cách nói “mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” thể hiện sự đơn giản đến mức đáng kinh ngạc trong suy nghĩ của những người lính. Không có điều kiện để thay áo, họ tự tìm cách thích nghi, tự biến những khó khăn thành điều hiển nhiên, rồi tiếp tục tiến lên.

 

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội.

Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”

 

Họ không đơn độc trên chặng đường này. Những chiếc xe “từ trong bom rơi”, những con người từng vượt qua bao thử thách giờ lại hội ngộ, tạo nên một tập thể gắn kết. Hình ảnh “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là một khoảnh khắc vô cùng xúc động. Họ không cần những nghi thức trang trọng, chỉ cần một cái bắt tay qua ô cửa vỡ cũng đủ để truyền đi bao sự ấm áp và tin yêu.

 

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời,

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.

Võng mắc chông chênh đường xe chạy,

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

 

Giữa chiến trường, họ dựng bếp dã chiến, san sẻ bữa cơm, cùng mắc võng ngủ tạm ven đường. Chỉ một hình ảnh “chung bát đũa”, nhưng lại nói lên tất cả: tình đồng đội đã trở thành tình thân. Họ coi nhau như anh em, như một gia đình thực sự giữa bom đạn chiến tranh.

 

“Không có kính, rồi xe không có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước,

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

 

Câu thơ cuối là đỉnh cao tư tưởng của cả bài thơ. Dù xe có bị bom đạn tàn phá đến mức nào, dù thiếu thốn ra sao, nhưng “chỉ cần trong xe có một trái tim”, thì tất cả vẫn tiếp tục tiến về phía trước. Trái tim ấy chính là lòng yêu nước, là tinh thần kiên cường, là ý chí chiến đấu không gì lay chuyển được.

 

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã khắc họa thành công hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm tháng chiến tranh chống Mỹ. Không chỉ là một tác phẩm về chiến tranh, bài thơ còn là một bài ca bất diệt về lòng yêu nước, về sức mạnh của con người Việt Nam – những con người có thể chịu đựng tất cả, mất đi tất cả, nhưng vẫn vững vàng, hiên ngang vì một lý tưởng cao đẹp.

 

Diệu Thu 

 

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

Con lai - chương buồn cuối của cuộc chiến

 

CON LAI - CHƯƠNG BUỒN CUỐI CỦA CUỘC CHIẾN

Ước tính có ít nhất khoảng 21.000 con lai Mỹ đang sống ở Mỹ và số còn lại khoảng 400 người vẫn đang sống tại Việt Nam. Số phận của nhiều người trong số họ được coi là một trong những di sản dang dở của cuộc chiến.

 

Nỗi buồn im lặng

 

Trong khi có một số trường hợp con lai là từ các quan hệ tình cảm, rất nhiều trường hợp là kết quả các cuộc tình ngắn ngủi hay các quan hệ không chính thức khác.

Một số đông con lai, cả ở Mỹ và Việt Nam, đều gặp sự phân biệt đối xử, trêu chọc hay bị chính các gia đình bỏ rơi và đưa vào cô nhi viện sau khi sinh ra.

Một số cựu binh Mỹ khi nhắc vấn đề này đã chỉ trích đây là sự vô trách nhiệm của các cựu binh.

 

Một bài viết trên trang web Smithsonian nói có khoảng 26.000 con lai và khoảng 75.000 người thân hiện đang sống ở Mỹ. Theo ông Miller, phần lớn con lai đều đã sang Mỹ sống và những cựu binh Mỹ nếu muốn kiếm con thì nên tìm ở Mỹ chứ không phải tại Việt Nam.

 

Nhưng ngay ở Mỹ, tình trạng những người con lai bị ngược đãi, phân biệt đối xử cũng diễn ra phổ biến, việc hòa nhập của những người này không hề dễ dàng.

Chỉ khoảng 3% trong số này tìm được cha nuôi thật của mình, việc kiếm được công việc tốt rất khó khăn.

 

Khoảng một nửa số này vẫn bị coi là mù chữ (cả tiếng Anh và tiếng Việt) nên không thể trở thành công dân Mỹ (phải thi ngôn ngữ). Một số bị nghiện thuốc, trở thành thành viên băng nhóm và rơi vào cảnh tù tội.

Ngay trong cộng đồng Việt kiều, con lai cũng bị hắt hủi vì những đồn đoán họ là sản phẩm của các cuộc tình mua bán.

 

ST

Thứ Ba, 9 tháng 4, 2024

Kết cục buồn của oppenheimer "cha đẻ" bom nguyên tử Mỹ

 

KẾT CỤC BUỒN CỦA OPPENHEIMER "CHA ĐẺ" BOM NGUYÊN TỬ MỸ

Giáo sư Robert Oppenheimer tại Đại học California, Berkeley và là lãnh đạo của phòng thí nghiệm Los Alamos trong thời gian chiến tranh. Ông được biết đến với vai trò quan trọng trong dự án Manhattan, dự án phát triển bom nguyên tử đầu tiên trong Thế chiến II.

Ngày 25/10/1945, hơn hai tháng sau ngày 2 quả bom nguyên tử ném xuống đất Nhật, giáo sư Robert Oppenheimer nhận lời mời gặp Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tại Nhà Trắng.

Tác giả Ray Monk trong cuốn "A Life Inside the Center" viết về cuộc đời giáo sư Oppenheimer, xuất bản năm 2012 cho biết:

 "Đây là lần đầu tiên Oppenheimer đặt chân vào căn phòng quyền lực nhất nước Mỹ nhưng không lâu trước đó, cảm giác vui sướng, tự hào của Oppenheimer vì đã góp phần quyết định kết thúc chiến tranh bỗng vỡ tan khi ông biết 2 quả bom do ông tạo ra, giết chết ngay lập tức 200.000 người, hơn 140.000 người khác chết trong những ngày kế tiếp vì chấn thương và vì bỏng...".

Buổi gặp gỡ Tổng thống Truman diễn ra trong không khí trang trọng với sự có mặt của hầu hết các tướng lĩnh cao cấp thuộc Bộ Chiến tranh Mỹ, kể cả Bộ trưởng Henry Stimson.

Tuy nhiên, khi nhìn thấy khuôn mặt thẫn thờ của Oppenheimer, ông Truman hỏi: "Có chuyện gì về sức khỏe không?" thì Oppenheimer đáp: "Thưa tổng thống, tôi thấy tay mình đã vấy máu…".

Sững người vài giây, Tổng thống Truman lấy lại vẻ bình tĩnh. Ông nói với Oppenheimer: "Ông không nên mang cái gánh nặng ấy vào người. Tay tôi cũng vấy máu như ông vậy. Hãy để tôi lo về điều đó".

Đó là lần duy nhất và cũng là lần cuối cùng Oppenheimer gặp Tổng thống Truman, khác hẳn với tâm trạng của ông hôm 16/7/1945, khi một quan sát viên tại Phòng thí nghiệm Los Alamos hét lên: "Nó đã nổ".

Đó chính là lúc một số ít nhân vật cao cấp trong chính quyền Mỹ nhìn thấy ánh sáng chói chang rồi tiếp theo là tiếng nổ trầm đục đi cùng với sóng xung kích và một đám khói hình nấm bốc lên, khiến cho tất cả dù đã ở trong căn hầm bê tông cốt thép dày 10m, cách xa tâm nổ 6km vẫn cảm thấy tức ngực.

 Tướng John Leslie R. Groves, người đứng cạnh Oppenheimer nhớ lại: "Khuôn mặt Giáo sư Oppenheimer tràn ngập niềm phấn khích. Ông ấy là người đầu tiên trên thế giới kiểm soát được sức mạnh hạt nhân. Quay sang tôi, ông ấy lắp bắp: "Anh John, chiến tranh sẽ chấm dứt, chấm dứt và mãi mãi chấm dứt".

Vẫn theo tướng John, khi quay ra xe, thái độ phấn khích của Oppenheimer còn được thể hiện bằng dáng đi khệnh khạng: "Tôi hiểu Oppenheimer. Ông ấy đã thắng. Nước Mỹ và đồng minh cùng các nạn nhân của chủ nghĩa quân phiệt, phát xít mang ơn ông ấy!".

Ngày 28/2/1945, quả bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới ra đời với mật danh "Trinity". Đến ngày 16/7/1945, Trinity được cho nổ tại bãi thử Los Alamos. Chuẩn tướng Thomas Farrelll, người có mặt trong hầm an toàn với Oppenheimer khi diễn ra vụ nổ nhớ lại:

"Ngay trước lúc bom nổ, tôi thấy Oppenheimer nín hơi, khuôn mặt ông ấy cực kỳ căng thẳng vào những giây cuối cùng. Chỉ đến khi một quầng lửa bừng lên, các cơ mặt ông ấy mới giãn ra với đầy vẻ vui sướng…".

Thế nhưng chỉ 2 tháng sau ngày người Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống đất Nhật, cuộc sống của Oppenheimer rẽ sang một hướng khác. Ông hút thuốc lá liên miên và thần kinh thì suy nhược trầm trọng.

Sau khi gặp gỡ một số tướng lĩnh Mỹ trực tiếp cầm quân đánh nhau với người Nhật và được biết nếu Mỹ không ném bom nguyên tử, Đế quốc Nhật cũng sẽ phải đầu hàng. Việc ném 2 quả bom chỉ rút ngắn thời gian chấm dứt chiến tranh, tiết kiệm xương máu lính Mỹ nhưng ngược lại, người dân Nhật vô hình trung thành vật tế thần.

Ngày 29/8/1949, Liên Xô thử nghiệm thành công quả bom RDS-1 ở bãi thử Semipalatinsk, Kazakhstan và trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới sở hữu vũ khí hạt nhân. RDS-1 có sức công phá tương đương 22.000 tấn thuốc nổ TNT, mạnh hơn cả hai quả bom Mỹ thả xuống Nhật.

Nghe được thông tin này, Oppenheimer chua chát: "Cuộc chạy đua vũ khí hủy diệt tương lai nhân loại đã bắt đầu".

Năm 1953, ở giai đoạn đỉnh cao chống Cộng của chính quyền Mỹ, Oppenheimer bị buộc tội có cảm tình với Cộng sản và giấy phép an ninh đặc biệt của ông trong Ủy ban Năng lượng nguyên tử bị tước bỏ.

Điều này đồng nghĩa với việc ông không còn là cố vấn. Mãi đến năm 1963, Tổng thống Kennedy mới khắc phục bằng cách vinh danh Oppenheimer với giải thưởng Enrico Fermi - là giải thưởng cao quý nhất mà nước Mỹ dành cho các khoa học gia.

Ngày 18/2/1967, Oppenheimer qua đời tại thành phố Princeton, bang New Jersey, Mỹ, vì bệnh ung thư vòm họng.

Năm 1970, một hố thiên thạch trên mặt trăng được đặt tên ông rồi ngày 4/1/2000, một tiểu hành tinh do Nasa phát hiện cũng được gọi là Oppenheimer 67085 nhưng mãi đến tháng 12 năm 2022, Bộ Năng lượng Mỹ mới hủy bỏ quyết định thu hồi giấy chứng nhận an ninh của Oppenheimer đồng thời chính thức thừa nhận những cáo buộc với ông là không công bằng…

Theo: Dân Việt