Vào những năm 1380, Nhà Minh tạo nhiều sức ép nhằm
có cớ để xâm chiếm Đại Việt, hàng năm yêu cầu Đại Việt phải cung cấp lương thực,
tăng nhân (nhà sư), các loại cây ăn quả
quý, cấp 50 thớt voi để đánh quân phản loạn ở Quảng Tây…
Các yêu cầu của nhà Minh ngày càng vô độ nên triều đình cần người
tài giỏi đi sứ nhằm xoay chuyển tình thế. Bấy giờ nhà Trần ở vào thời mạt,
quyền lực trong triều dần bị Hồ Quý Ly nắm lấy. Hồ Quý Ly khi tìm người thì
thấy chỉ có mình Đào Sư Tích từng đỗ trạng nguyên là có thể đáp ứng được yêu
cầu này. Tuy nhiên lúc này Đào Sư Tích chán cảnh Hồ Quý chuyên quyền nên đã cáo
quan về quê bốc thuốc và dạy học.
Chuyến đi sứ này Đào Sư Tích đã thuyết phục nhà Minh bỏ và giảm nhẹ
nhiều lệ cống nạp hàng năm, trong đó bỏ hẳn được việc cống nạp tăng nhân, góp
phần quan trọng kéo dài thời gian hòa hoãn cho Đại Việt.
Tài năng của Đào Sư Tích khiến triều đình nhà Minh cũng phải e
ngại, Khi thời hạn đi sứ sắp hết, vua Minh có hỏi Đào Sư Tích rằng: “Nếu Bắc đánh Nam thì ai thắng”.
Đào Sư Tích bèn ngâm hai câu thơ trả lời:
Bắc thắng, Nam thua, thua thua thắng
Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua.
Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua.
Câu trả lời của Đào Sư Tích khiến các quan võ cười khoái trá nhưng
vua Minh và các quan văn thì không thể cười được, bởi hai câu thơ này có đến 5
chữ “thắng”, 5 chữ “thua”. Ngụ ý nhà Minh tiến đánh Đại Việt thì 5 thắng 5 thua
tức không thể thắng được.
Vua Minh lại hỏi tiếp: “Nhà
Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng dân ly tán, tại sao ta không thắng?”
Đào Sư Tích cũng lại đáp bằng hai câu thơ:
Trần thực, Hồ hư, hư
hư thực
Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư
Cổ lai chinh chiến thực thực hư hư
Nghĩa là:
Nhà Trần là thực, Hồ
chỉ là hư, hư là hư thực
Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư.
Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư.
Biết không dễ gì khuất phục được một người giỏi như Đào Sư Tích,
vua Minh liền nghĩ cách giết đi. Vua trao cho vị quan chuyên tiếp đón Đào Sư
Tích bốn phong thư và dặn rằng phải mở theo thứ tự.
Viên quan này mở phong thư thứ nhất thấy có câu “thượng văn vấn, hạ tri vương” nhưng
không hiểu ý là gì bèn hỏi Đào Sư Tích.
Đào Sư Tích giải thích
rằng: Vua Minh có ý bảo ta là thánh
nhân đó mà. Vua Minh quá khen,
cho ta là bậc thánh hiền. Ta đâu dám nhận lời khen đó.”
Sau đó vị quan mở phong thư thứ 2, đây chính là đáp án giải nghĩa
cho phong thư thứ nhất, đúng như những gì Đào Sư Tích đã giải nghĩa.
Phong thư thứ ba là sắc
phong Đào Sư Tích làm lưỡng quốc trạng nguyên, tức trạng nguyên của cả Trung
Hoa lẫn Đại Việt.
Phong thư thứ tư có hai dòng chữ:
Hậu hoạ
Nhất dược nhị đao
Nhất dược nhị đao
Vị quan này hiểu rằng đây là mệnh lệnh phải giết Đào Sư Tích bằng
đao hoặc độc dược nên ông rất buồn bã. Nhìn vẻ mặt của vị quan này Đào Sư Tích
đoán được sự việc liền an ủi rằng: “Thánh thì thoát tục. Ông chẳng nên quá
buồn rầu. Chỉ xin cho được chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm khi
phải trực tiếp giết ta”.
Thi hài Đào Sư Tích được đưa về nước mai táng tại Phủ Thiên Trường.
Sau khi mất, ông đã được người dân lập đền thờ tại nhiều nơi.
Tại di tích lịch sử văn hoá nhà thờ Trạng nguyên Đào Sư Tích của
Bảo tàng Nam Hà chép rằng: “Theo truyền thuyết và tư liệu lịch sử thì
khi ông mất tại đất Trung Quốc có 23 người, ngựa của nhà Minh đã hộ tống thi
hài Trạng nguyên Đào Sư Tích về an táng tại quê hương xứ Hạ Đồng theo lời di
chúc của ông…”
Cuộc đời của Đào Sư Tích đã đi vào tâm thức dân gian, ca dao cũng
như lời hát ru con của người dân nơi quê ông:
Trăm năm bia đá thì mòn,
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
Kim ngôn có tự bao giờ
Trạng nguyên Sư Tích bấy giờ Duệ Tông
Bảy tuổi đắc phong thần đồng,
Hữu tài thành chủ hàm công rõ rành.
Thi Hương, thi Hội, thi Đình,
Đứng đầu Đại Việt, anh minh sáng ngời.
Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
Kim ngôn có tự bao giờ
Trạng nguyên Sư Tích bấy giờ Duệ Tông
Bảy tuổi đắc phong thần đồng,
Hữu tài thành chủ hàm công rõ rành.
Thi Hương, thi Hội, thi Đình,
Đứng đầu Đại Việt, anh minh sáng ngời.
…
Tranh
vẽ trạng nguyên Đào Sư Tích. (Tranh qua thuvienlichsu.com)
Theo trithucvn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét