Giáo dục con cái ở lứa tuổi thanh thiếu niên
Đa số chúng ta trong cuộc sống phải đảm nhận rất nhiều vai
trò khác nhau, nhưng không có vai trò
nào khó hơn và quan trọng hơn vai trò làm cha, làm mẹ của con cái ở lứa tuổi
thanh thiếu niên từ 13 đến 19 tuổi – cái lứa tuổi “teenagers” mà khi nghe nhắc
đến mọi người điều nhăn mặt, lắc đầu chịu thua! Những đứa con ngoan ngoãn,
thuần tính, thích được lòng cha mẹ tự nhiên biến mất.
Tất cả những phương thức dạy dỗ con cái lâu nay
bỗng nhiên không còn đem lại kết quả khả quan như trước. Làm sao bây giờ? Có
người thì tự tách rời, bỏ mặc con, tránh không để ý đến cho yên chuyện. Các
giới thượng lưu ở các quốc gia như Anh, Thụy Sĩ có thói quen gửi con vào các
trường nội trú gọi là “acady” hoặc “prep schools” – nam riêng, nữ riêng – cho
người khác dạy. Đến khi con qua lứa tuổi này rồi thì chúng cũng trở thành người
xa lạ trong gia đình.
Có bậc cha mẹ thì nhất quyết muốn uốn nắn con theo
ý mình và truyền thống của gia đình. Điều này thường gây ra sự xung đột và căng
thẳng trong gia đình. Như vậy thì phải làm thế nào?
Có những lời chia sẻ của bạn bè đem về áp dụng thì lại không đúng cách hoặc không
phải lúc. Suy đi nghĩ lại chúng tôi thấy rõ những điều nêu ra trong sách vở
cũng như do bạn bè bày vẽ đều có giá trị nhưng làm sao để áp dụng hiệu quả là
một vấn đề! Dần dần chúng tôi cũng liên kết được một vài định luật khoa học
nhân văn vào khoa học vật lý để bất cứ người cha và người mẹ của thanh thiếu
niên nào cũng dễ dàng nhớ và áp dụng.
1. Go with the Flow – Thuận Theo Chiều
Gió:
Bạn nhìn những chiếc thuyền buồm căng gió chạy trên mặt nước, nó lướt nhẹ
nhàng, vượt trên những đợt sóng, và tiến tới đích. Người lái thuyền buồm dựa
trên các định luật vật lý căn bản để xoay cánh buồm theo chiều gió, lái mũi
thuyền theo dòng nước và giữ cho thuyền luôn di động. Người lái thuyền luôn
luôn để ý đến những nguyên tắc trên để thích nghi với các yếu tố trong thiên
nhiên, ứng dụng môi trường mình đang có để đi đến đích.
Hướng dẫn con cái ở tuổi thanh thiếu niên cũng như
điều khiển một chiếc thuyền buồm. Cuộc đời con cái chúng ta khi nào cũng đi
tới, cũng có sự đổi thay. Dòng nước cuốn và cơn gió thổi là những gì đang xảy
ra trong cuộc sống của con . Chiếc thuyền buồm cuộc đời các con đang di động.
Chúng ta không thể bắt thuyền quay về hướng chúng ta đã định cho con một cách gắt gao. Khi thấy con đi sai hướng,
hãy nhìn hướng gió, dòng nước và điều chỉnh từ từ. Có thể con thuyền sẽ đi lâu
hơn mới về tới đích, nhưng nếu tiếp tục điều chỉnh và hướng theo chiều gió, có
ngày sẽ đến. Điều quan trọng là không để mặc con thuyền trôi dạt không định
hướng hay quặt tay lái bắt đổi hướng bất thình lình. Cả hai phương cách có thể
làm con thuyền lạc hướng hoặc lật đổ rồi chìm luôn. Làm cha, làm mẹ, chúng ta
là người lái thuyền buồm – cần sự uyển chuyển và kiên nhẫn cũng như cần quan
sát, để ý, và nhận thức ngoại cảnh và các yếu tố ảnh hưởng chung quanh đời sống
của con. Thuận buồm, xuôi gió, thuyền sẽ đến đích!
Một câu chuyện phản ảnh nguyên tắc trên: Có một gia đình bạn chúng tôi có cô
con gái học rất giỏi và rất được bạn bè cùng thầy cô yêu quý. được bầu là “most popular” tại trường trung
học của và được chọn là “prom queen” của năm lớp 10. tham dự rất nhiều sinh hoạt của trường và có
nhiều bạn.
Ở lứa tuổi này, em rất gần và trung thành với nhóm bạn của em, cả trai lẫn gái.
Khi lên lớp 11, em hay đến nhà bạn chơi hay đi theo những sinh hoạt ở lại qua
đêm do trường tổ chức. Dần dần mối liên hệ mật thiết với bố mẹ của em bị giảm
đi. Mặc dầu em vẫn duy trì sự lễ phép trong gia đình và chuyên cần trong việc
học, em ít tâm sự với bố mẹ như lúc trước.
Những buổi họp mặt gia đình họ hàng bắt đầu vắng
bóng em vì em bận học và bận tiếp xúc với bạn bè cùng lứa. Một vài lần, bố mẹ
đã phải hốt hoảng lấy xe chạy đi khắp nơi tìm em vì đã quá nửa đêm không thấy em
về. Đến khi về nhà, em thản nhiên giải thích là em đến nhà bạn chơi, nói chuyện
và ngủ quên ở đó. Bố mẹ bắt đầu gạn hỏi em rõ hơn về những người bạn em thường
giao du. Em thú thật với bố mẹ là đám bạn của em là những người em đã từng quen
biết lâu năm từ bậc tiểu học, bây giờ có những bạn đã vào băng đảng, đã từng bị
bắt và bị tù. Tuy nhiên, đối với em, những người này vẫn là bạn thân thiết của em.
Bố mẹ em hoang mang. Tục ngữ ca dao ta có câu, “Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng,” nên bố mẹ khuyên em nên tìm bạn mới. Em trả lời
là những người bạn này cần em hơn lúc nào hết vì họ đang gặp khó khăn. Bố mẹ băn khoăn nhưng hiểu là nếu cấm thì dễ dàng tạo
sự xung khắc và hai bên không còn trao đổi tâm sự được nữa. Một mặt khác, tâm
lý tuổi thanh thiếu niên, điều gì càng cấm càng có hấp lực mạnh hơn. Bố mẹ em
đành phải thuận theo vì không có cách nào hơn.
Từ đó, thỉnh thoảng bố em tìm cách hỏi thăm về
những người bạn này, nhất là những người đang ở trong tù. Một hôm, em xin tiền
bố mua quà vào tù thăm bạn thì không những bố em vui vẻ cho tiền mà còn sẵn
sàng chở em vào tù thăm bạn. Từ đó thỉnh thoảng bố đi cùng em vào tù thăm những
người bạn trong băng đảng của em. Trong thời gian này, em tiếp xúc với đủ hạng
người và bắt đầu chứng kiến những sự kì thị và bất công trong xã hội nên có
những lúc em chán nản và bỏ nhà theo bạn một vài ngày cuối tuần mà không cho bố
mẹ biết. Đối với một gia đình Việt Nam, con gái bỏ nhà đi là một chuyện “tày
trời!”
Bố mẹ đau khổ nhưng không tỏ thái độ ruồng bỏ hay thất vọng khi em trở về mà
nhẹ nhàng khuyên nhủ em đừng nên vì quá lo cho bạn bè mà xao lãng chuyện học.
Bố mẹ tiếp tục thay phiên chở em đi học buổi sáng và thỉnh thoảng cùng ghé vào
nhà thờ cầu nguyện trước khi đến trường. Năm lên lớp 12 trung học, em bắt đầu ý
thức sự khác biệt giữa em và bạn bè. Em bắt đầu hiểu là mọi người điều có cơ
hội và trách nhiệm trong cuộc sống. Em không còn cảm thấy bị ràng buộc bởi
những người bạn kia nữa và dần dần tập trung vào sinh hoạt ở trường và cuộc
sống gia đình trở lại. Cuối năm, khi ra trường trung học, em đạt được điểm cao
và lên đại học hệ thống U.C. dễ dàng. Mỗi khi nghĩ lại khoảng thời gian ấy, bố
mẹ em còn rùng mình hãi hùng tưởng chừng như còn cơn ác mộng! Chính nhờ sự uyển
chuyển và biết hướng dẫn con thuận theo chiều gió và điều chỉnh từ từ mà cơn ác
mộng ấy đã không thành sự thật. Ngày nay, cô con gái đó là một cô giáo trung
học thành công vì em biết và hiểu tâm trạng của học sinh mà em đang dạy. Nhờ sự
hướng dẫn khôn khéo và tình thương yêu vô bờ bến của bố mẹ, em trở thành người
hữu dụng và được những kinh nghiệm khó khăn của tuổi mới lớn để giúp người
khác.
2. Action - Reaction -Tác Động Phản
Kháng:
Mỗi tác động đều nảy sinh ngược lại một tác động phản kháng hoặc phản ứng lại
tác động trước. Ví dụ như “Everything that goes up must come down,” – Cái gì đi
lên cũng phải rơi xuống lại (vì sức hút của trái đất). Khi một trái banh bị ném
xuống đất thì nó dội lên lại. Định luật này cũng được áp dụng trong khoa học
nhân văn.
Tác dụng một lời khen đưa đến phản ứng vui vẻ của
người được khen. Một lời chê đưa đến sự chống chế, bào chữa hay phật lòng. Mỗi
tác động, bất cứ là một sự hành xử hay lời nói đều nảy sinh ra một phản ứng.
Phản ứng này lại có tác dụng nảy sinh ra một phản ứng khác. Thông thường, chúng
ta có thể dự đoán được phản ứng của người thân thuộc dựa trên tâm lý thông
thường và những liên hệ quá khứ.
Khi người chồng đi làm về bước vào nhà nét mặt đăm
chiêu, đến chiếc ghế trước TV ngồi phịch xuống và mở TV lên, người vợ biết là
ông ta có chuyện không vui và phản ứng bằng cách lùa con ra sân chơi để bố nghỉ
mệt và thư giản. Khi cậu con trai đưa phiếu điểm cho bố mẹ xem, cậu biết là cha
mẹ sẽ có phản ứng giận giữ vì những điểm kém trong sổ điểm. Cậu gồng mình và
phập phồng chuẩn bị lời phân trần biện hộ khi cha mẹ trách mắng. Sau đó, cậu sẽ
về phòng và mở nhạc thật lớn lên nghe, hay chơi một game trên internet với bạn
để cho bớt bực bội. Qua tới ngày hôm sau thì cậu quên hết những lời la mắng
khiển trách của bố mẹ.. . cho tới chu kỳ sau! cậu cũng chỉ ham chơi hơn ham
học. Những lời trách mắng cậu con trai 16 tuổi như nước đổ đầu vịt. Cha mẹ cậu cảm
thấy chán nản, thất vọng, và bất lực!
Theo định luật action reaction, nếu không có tác động, thì không có tác động
phản kháng hoặc phản ứng. Nếu bố mẹ thay vì lớn tiếng trách cứ cậu con ham chơi
hơn ham học, không hành xử như thế mà hành xử theo một cách thức khác hoàn toàn
mà cậu con không dự đoán được, phương trình action- reaction sẽ bị gián đoạn,
đưa đến sự suy nghĩ, suy xét lại.
Thông thường, một phản ứng quen thuộc lâu ngày
thành một tác động phản xạ không cần suy
nghĩ. Điều cần thiết là tạo cơ hội và môi trường cho lứa tuổi thanh thiếu niên
dừng lại và suy nghĩ. Khi có sự suy nghĩ, con người không nhắm mắt làm ngơ
trước những điều phải trái. Để thoát khỏi sự hành xử theo phản ứng, cha mẹ phải
làm những điều “bất ngờ” làm cho con cái “mất thăng bằng” vì chúng không biết
phản ứng như thế nào. Khi bị mất thăng bằng, chúng phải suy nghĩ lại để điều
chỉnh sự suy nghĩ và hành động của mình. Lúc đó, cha mẹ và con cái có thể tìm
một đường hướng mới để đi tới đích.
Một câu truyện phản ảnh nguyên tắc trên: Một người bạn chúng tôi lâm vào tình
cảnh “gà trống nuôi con” đã nhiều năm. Một buổi tối sau một ngày dài làm việc
mệt mỏi, người bố bước vào phòng cậu con trai út là một học sinh trung học 17
tuổi. Đây là thời gian cậu phải chuẩn bị học thi cho những kỳ thi lên đại học
trong năm tới. Tuy nhiên, người bố thấy cậu đang nằm dài trên giường, vừa coi
TV vừa “chat” với bạn trên internet. Trên bàn và trên kệ, chồng sách vở nằm
ngay hàng thẳng lối, không có dấu gì của một người đang học thi. Khi thấy bố
vào, cậu ngồi lên chào bố. Người bố hỏi: “Hình như ngày mai con có cuộc thi
quan trọng phải không? Sao, con đã chuẩn bị kỹ càng chưa?”. Cậu con trả lời:
“Bố, con chán học lắm rồi. Con thấy học cho lắm cũng vậy thôi. Chả có gì quan
trọng cả!”. Người bố cảm thấy một cơn giận đang âm ỉ nổi dậy trong lòng. Bao năm
tháng, ông ráng một mình lo toan mọi việc cho các con thong thả ăn học. Kỳ vọng
duy nhất ông đặt vào các con là phải lo chăm học và giữ đạo nghĩa. Bây giờ cậu
con út ngang xương tuyên bố không muốn học! Ông lặng người suy nghĩ. Sau đó
người bố bình tĩnh trả lời:
“Được rồi. Con không muốn học thì bố cũng không ép. Mớ sách vở này bây giờ con
không cần nữa thì để bố dẹp cất đi cho rộng phòng.” Người bố ra garage, lấy vào
mấy thùng giấy carton, thong thả xếp từng cuốn sách vào thùng rồi lấy băng keo
dán lại. Ông khiêng từng thùng ra ngoài garage cất xong bước vào phòng đối diện
với cậu con trai. Ông móc túi lấy tiền từ trong ví ra và nói, “Ngày mai, con
không phải đi học thì con có thể đi chơi. Đây, bố cho con ít tiền. Con cầm lấy
mà tiêu.” Sau đó, người bố ngồi xuống bàn giấy của con, lấy giấy viết ra và
nói: “Để bố viết một lá thư cho bà hiệu trưởng, xin phép cho con nghỉ học.”
Viết lá thư xong, ông gấp lại, bỏ vào phong bì và đặt trên bàn rồi đứng dậy:
“Thôi, bố mệt rồi, bố về phòng nghỉ. Con không phải đi học ngày mai thì con cứ
tự nhiên thức khuya, coi TV. Không sao cả.” Nói rồi, người bố vào phòng riêng
đóng cửa lại.
Chừng một tiếng đồng hồ sau, có tiếng gõ cửa. Giọng
người con trai rụt rè nói: “Bố, con muốn nói chuyện với bố.” Người bố mở cửa ra
và cậu con bước vào phòng. Cậu nhìn bố nói: “Bố, con suy nghĩ lại rồi. Con muốn
tiếp tục đi học!” Người bố vui vẻ trả lời: “Ồ? Vậy thì mình xuống nhà xe đem
sách lên lại con nhé.” Nói xong, hai bố con khiêng hai thùng sách từ garage trở
lại phòng, mở ra, và sắp sách lại trên kệ y như cũ. Từ đó về sau, cậu con trai
không bao giờ than phiền về chuyện học và người bố không bao giờ nhắc lại
chuyện cũ! Năm nay cậu con trai ra trường, tốt nghiệp một lần hai ngành học và đã có việc làm tốt chờ
sẵn.
3. The Necessary and Sufficient
Condition – Điều kiện ắt có và đủ:
Trong toán học và luận lý học, điều kiện phụ thuộc rất thông dụng, ví
dụ như: “Nếu Y hiện diện thì X cũng xuất hiện.” Phần “nếu Y hiện diện” là mệnh
đề điều kiện, phần “X cũng xuất hiện” là kết quả. Có hai loại điều kiện: ắt có
và đủ.
(a) Điều kiện ắt có là điều kiện khi thiếu không thể đem lại kết quả. Ví dụ:
Nếu thiếu Y thì không có X Nếu thiếu không khí thì không có sự sống. Điều kiện
ắt có cho sự sống là không khí, tuy nhiên chỉ có không khí cũng chưa đủ để có
và duy trì sự sống. (b) Điều kiện đủ là điều kiện tự nó bảo đảm kết quả, không
cần phụ thuộc vào bất cứ một điều kiện nào khác. Nếu có X, tất nhiên phải có Y
Nếu là một hình tam giác cân, tất nhiên phải có 2 góc bằng nhau. Đã có 2 góc
bằng nhau thì chắc chắn là hình tam giác cân.
Trong vai trò làm cha làm mẹ của con lứa tuổi thanh thiếu niên, điều kiện để
dẫn đến sự thành công là gì? Điều kiện nào là điều kiện ắt có và điều kiện nào
là điều kiện đủ? Để hiểu rõ hơn sự khó khăn, phức tạp và tế nhị đòi hỏi bậc cha
mẹ trong lúc này, chúng ta mượn các khái niệm toán học. X cần thiết nhưng không
đủ để đưa đến Z: X là tình thương cha mẹ dành cho con, nhưng thương không thôi vẫn
chưa đủ để giúp con nên người. Nhưng nếu thiếu X thì không thể nào có Z - thiếu
tình thương cha mẹ, chắc chắn con sẽ không có cơ hội thành công. Như vậy thì
điều kiện ắt có (X) là tình yêu thương cha mẹ dành cho con; điều kiện đủ (Y) là
tình thương không vị kỷ – nghĩa là cha mẹ đặt hạnh phúc và tương lai con trên
hết; và kết quả (Z) là sự thành người của con sau này. Xã hội Việt Nam đặt nặng
vấn đề sĩ diện và quan niệm dạy con chú trọng vào việc uốn nắn con theo khuôn
khổ và truyền thống gia đình. Vì sĩ diện, khi con cái không làm theo ý cha mẹ,
cha mẹ cảm thấy bị sỉ nhục và có những lời lẽ quyết liệt ví dụ như:
“Mày mà bước ra khỏi căn nhà này thì đừng bao giờ trở về nữa!”, “Con mà đi theo
băng đảng thì ba mẹ từ con luôn!”
Khi con làm cha mẹ phật lòng, giận dữ cha mẹ lớn tiếng la mắng ngay cho thỏa sự
tức giận và bực dọc.
Có thương con, cha mẹ mới tức giận, buồn lòng. Tuy nhiên để đạt được kết quả
(Z) – con nên người mai sau, chúng ta cần để ý hơn về yếu tố (Y). Giận và buồn
bực là những cảm xúc không ngăn được khi có chuyện làm chúng ta phật lòng. La
mắng, sỉ nhục, nặng lời, đánh đập, trừng phạt là những hành động chúng ta có
thể kềm hãm được khi cân nhắc hậu quả và mục đích tối hậu – giúp con nên người.
Yếu tố (Y) giúp người cha người mẹ nghĩ tới hành động và sự hữu hiệu trong việc
hướng dẫn con. Yếu tố (Y) giúp cha mẹ không bỏ rơi con lúc khó khăn. Tình
thương không vị kỷ (Y) giúp cha mẹ dám tâm sự, chia sẻ, tìm giải pháp và sự
giúp đỡ bên ngoài để hướng dẫn con. Cha mẹ nào mà không yêu thương con. Yêu
thương là điều kiện ắt có để hướng dẫn, dạy dỗ con nên người. Có yêu đủ hay
không là yếu tố quan trọng để định đoạt sự thành công hay thất bại trong vai
trò làm cha, làm mẹ.
Trong hai ví dụ đưa ra trong hai định luật trước, những người bố người mẹ kia
là người có thật, không phải do chúng tôi dựng lên để “make a point!” Nhưng khi
chỉ nghe kể lại mà chưa tiếp xúc với họ thì có lẽ bạn cũng thấy “khó tin.” Thật
ra họ cũng là những người bình thường như chúng ta thôi – họ cũng có lúc nóng
giận, mất bình tĩnh, không kiên nhẫn, v.v.. Tuy nhiên khi mang vào người vai
trò làm cha làm mẹ thì họ yêu con họ hơn chính bản thân họ. Họ yêu con đủ để
làm những chuyện bình thường họ không làm được. Họ yêu con đủ để đặt hạnh phúc
và tương lai con lên trên cá nhân họ. Khi yêu con nhiều và đủ, người cha người
mẹ có thể vượt qua tất cả để “cứu” con.
Một câu truyện khác, không phải chỉ có cha mẹ Á Đông hay Việt Nam mới biết yêu
con hết lòng. Một trong những bạn và đồng nghiệp chúng tôi là một bà gốc Mỹ
latin. Khi hai vợ chồng ly dị thì cô con gái bà mới 15 tuổi. Từ bé đến lớn bà
cho con theo học trường tư, trường đạo. Đến khi li dị phải dọn nhà đi xa, trong
năm đầu, bà vẫn đưa con về trường cũ học, khá xa nhà. Sang tới năm sau, cô con
gái đề nghị bà chuyển em về một trường công lập gần nhà để em dễ dàng có bạn
cùng lớp cùng xóm. Bà mẹ em là một nhà giáo dục thuần thành – vừa là người tư vấn
cho một trường đại học, vừa là một ủy viên giáo dục học của khu trong vùng. Bà
sinh hoạt nhiều trong cộng đồng nên được nhiều người biết đến. Bà đồng ý đổi
trường cho con.
Cô con gái, lâu nay trong khuôn khổ trường đạo khép kín và kỷ luật chặt chẽ,
nay ra một môi trường mới, em thay đổi rất nhanh. Trường mới của em thuộc giới
trung lưu – đa số gia đình có mức lợi tức cao vì cả hai cha mẹ đều đi làm; do
đó, các cô cậu thanh thiếu niên có tiền tiêu rộng rãi nhưng thiếu sự kiểm soát
của người lớn. Qua tới năm lớp 10 trung học, cô con gái bắt đầu theo bạn uống
bia, rượu – lúc đầu chỉ vào những ngày cuối tuần, dần dần qua những ngày giữa
tuần. Có những buổi chiều bà mẹ đi làm về, vào phòng thấy con nằm dài, hơi thở
nồng mùi rượu, say be bét. Bà mẹ bỏ làm chạy vào trường nói chuyện, tìm hiểu,
và tìm cách giúp đỡ con. Bà khám phá ra là nạn uống rượu rất phổ biến trong
trường và hầu như ai cũng làm ngơ. Miễn sao học sinh vẫn tiếp tục đến trường,
không say sưa trong khuôn viên trường thì nhà trường không có trách nhiệm gì
hết!
Thất vọng, bà đưa con trở về lại trường cũ, hy vọng
em sẽ tách rời ảnh hưởng xấu của các bạn cũ. Vì là một người mẹ độc thân, gia
cảnh em cô quạnh chỉ có hai mẹ con, bà vẫn phải đi làm và chỉ dò hỏi con lúc về
nhà buổi tối. cô con gái tỏ ra thuần thục hơn, ít đàn đúm bạn bè uống rượu hơn.
Tuy nhiên, sau lưng bà, em vẫn lén lút gặp đám bạn cũ. Không những thế, đám bạn
bắt đầu cho em nếm mùi thuốc phiện, cần sa, ma túy và không lâu sau, em bị nghiện.
Triệu chứng của những người nghiện thuốc mà vẫn có
thuốc hút hoặc hít đầy đủ thì rất khó phát hiện trong giai đoạn đầu. Đến khi bà
mẹ biết rõ thì cô con gái đã nghiện nặng rồi. Em bỏ bê trường lớp và không còn
thiết tha điều gì ngoài việc tìm chất thuốc phiện đưa vào người cho qua cơn
nghiền. Có những đêm hai mẹ con lời qua tiếng lại và cô con gái bỏ nhà đi. Bà
mẹ đi tìm con miết không thấy phải báo cảnh sát. Đó là một sự nhục nhã cho bà
vì bà vừa là một người tư vấn, vừa là một ủy viên giáo dục và là dân cử. Tuy
nhiên lúc ấy, bà chẳng nghĩ gì hơn ngoài việc tìm con, sợ con lang thang, vất
vưởng ngoài đường giữa đêm khuya nguy hiểm. Trong suốt thời gian đó bà mẹ có
cảm tưởng mình đang sống trong địa ngục. Bà vừa giận con, vừa thương xót cho
con thân xác điêu tàn, vừa tủi hổ với chính bản thân mình.
Bà yêu con và nhất quyết tìm cách giúp con. Sau khi nói chuyện với những người
đồng nghiệp và nghiên cứu trên internet, bà tìm một trung tâm chuyên giúp thanh
thiếu niên cai thuốc và bắt kịp lại chương trình học. Trung tâm này tọa lạc tại
một quần đảo hoang dã trong vùng biển Carribean. Đây là biện pháp cuối cùng
dùng để cải huấn những thanh thiếu niên bị nghiện. Trung tâm này là nhà trọ
nguyên năm của các cô cậu để vừa “cai” thuốc cho họ, vừa dạy kèm ráo riết để họ
có thể trở về trường học cũ và ra trường cùng với chúng bạn. Chi phí cho trọn
năm là 40 ngàn mỹ kim. Bà mẹ nhất quyết gửi con đi mặc dầu bà phải lấy hết tiền
trong quỹ tiết kiệm và mượn thêm tiền của người anh họ. Sau khi tham khảo với
người mẹ, trung tâm cho người đi theo cô con gái để quan sát trong hai ngày.
Đến ngày thứ ba,họ đón em khi em vừa trong một khu phố Shopping Center bước ra.
Hai người ập tới mang em vào xe van có bà mẹ ngồi đợi. Bà mẹ ôn tồn giải thích
cho em là em phải đi học ở xa, một năm sau mới về lại nhà. Mặc cho em la khóc,
nguyền rủa, chiếc xe chở em lên phi trường với một xách hành lý người mẹ sắp
sẵn. Họ đưa em lên một chiếc máy bay nhỏ đậu sẵn ở sân bay trong tiếng la khóc oán
giận của cô con gái.
Bà mẹ đứng lặng người nhìn theo, lòng quặn thắt,
cầu mong mình đã hành xử đúng. Một năm sau, bà mẹ được tin lên đón con về. Bà
phải đi hết hai chuyến máy bay, một chuyến xe đò và một cuốc xe ngựa mới lên
đến nơi. Trung tâm nằm trên một ngọn núi nhìn xuống biển, bốn bề là rừng cây um
tùm. Bên trong gọn gàng, sạch sẽ và chỉ có những tiện nghi tối thiểu, không hơn
những nhà nội trú hoặc dòng tu. Các học viên phải tự dọn dẹp, nấu nướng, giặt
giũ và lau chùi nhà cửa, phòng ngủ của mình. Thức ăn dinh dưỡng đạm bạc. Kỷ
luật của trung tâm rất chặt chẽ và khắt khe. Ngoài giờ ngủ, mỗi giờ đều được
tính sẵn theo thời khóa biểu mọi người phải tuân theo.
Học viên phải học tập tất cả các bộ môn đang học
trong trường, kể cả thể dục, ngoại ngữ, toán, sử, v.v.. Đa số các thanh thiếu
niên đến từ những gia đình có tiền và chức tước ở Hoa Kỳ và các quốc gia Âu
Châu. Các cô cậu sau khi “thuần thành” và xuất trại, chẳng ai dám tái phạm vì
không bao giờ muốn trở về lại chốn này lần thứ hai! Trong suốt tháng đầu khi
trở về nhà, cô con gái đi học tử tế nhưng không nói lời nào với bà mẹ. Mỗi khi
bà mẹ hỏi thăm, tìm cách trò chuyện, em nhìn bà mẹ với một ánh mắt oán hờn. Sáu
tháng sau, em bắt đầu tường thuật lại những ngày “huấn nhục” em trải qua trong
trung tâm ấy.
Một năm sau, khi đã hoàn toàn hòa nhập lại đời sống
học sinh và theo kịp bạn bè, bất chợt một buổi tối em ôm mẹ hôn và nói, “Con
cảm ơn mẹ!” Hiện tại, em vừa chuyển lên trường đại học bốn năm sau khi học hai
năm đầu ở đại học cộng đồng. Cho tới bây, người mẹ mới tin là mình đã quyết
định đúng! Lòng yêu con và sức mạnh của tình yêu con giúp bà không bỏ rơi con
và làm đủ mọi cách để con vượt qua những khó khăn của tuổi trưởng thành.
“In Love” and “Love” - “Yêu” và
“Thương”:
Cách đây không lâu, một người bạn đồng nghiệp của tôi khoe ảnh cháu ngoại, cháu
nội mới nhận được và nói một cách đầy hứng thú và nhiệt tình: “I’m just in love
with …!” Tôi ngạc nhiên nhìn bà hỏi: “Tại sao bà nói là “in love” thay vì
“love”? Bà suy nghĩ một lúc và trả lời: “Mỗi lần tôi biết có cháu sắp đến chơi
là tôi vui lắm, cả ngày tôi chỉ mong đến chiều về để tôi gặp cháu. Khi đi
shopping, tôi toàn nghĩ đến cháu và lựa áo quần đẹp cho chúng. Mỗi lần tôi nghe
cháu bệnh là tôi lo lắng, gọi điện thoại thăm hỏi liên tục!” Bà ngưng một lúc
rồi tiếp lời: “Lúc con tôi còn nhỏ, khi chúng còn là baby tôi cũng cảm thấy y
như vậy. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến con và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để bảo vệ
con tôi và cho chúng được sung sướng hạnh phúc. Bây giờ thì tôi vẫn ‘love’ con
tôi nhưng tôi thật sự là ‘in love’ với cháu tôi!” Lời chia sẻ của bà bạn làm
chúng tôi suy nghĩ về sự khác biệt giữa hai trạng thái “love” và “in love” –
bình thường chữ “in love” chỉ dùng trong sự liên hệ tình cảm giữa nam và nữ lúc
hai người mới yêu nhau. Khi ấy tình cảm họ còn đang nồng nàn, sôi động, lúc nào
cũng muốn gần nhau; trong mắt họ, không ai đẹp hơn người mình yêu; người kia
làm gì, nói gì người nọ cũng thấy hay và hấp dẫn hết. Hai người đang yêu nhau
cũng dễ sẵn sàng hy sinh cho nhau, kiểu Romeo và Julliette. Chúng tôi nhớ lại
lúc con mình còn bé dại và hồi tưởng lại cái cảm xúc hạnh phúc lúc bồng bế con
trong tay và cái cảm tưởng là không ai đẹp hơn con mình và mình sẵn sàng làm
bất cứ điều gì để bảo vệ con. Ai từng làm cha làm mẹ cũng đã trải qua những cảm
xúc như thế. Do đó, dùng chữ yêu con lúc con mới ra đời và còn bé bỏng thật là
chính xác. Trải qua nhiều năm tháng cái tình “yêu” con đằm thắm lại và chuyển
thành “thương.” Nói như thế, chúng ta có thể cho chữ “yêu” tương đương với “in
love” và “thương” là “love”.
Lứa tuổi thanh thiếu niên – teenagers – là lứa tuổi “khó yêu” nhưng “đáng yêu”
hay cần được yêu nhất! Trong lứa tuổi này, con cái bắt đầu muốn có sự tự lập,
tự tách riêng khỏi lệ thuộc cha mẹ để chuẩn bị làm “người lớn” – đây là một
tiến trình tự nhiên trong sự phát triển của con người, bất kể chủng tộc, văn
hóa và màu da. Những câu phát biểu ý kiến trái ngược với cha mẹ, những hành vi
chống đối hay tỏ ra bất cần đều nằm trong diễn tiến đi từ sự lệ thuộc đến sự tự
lập mà xã hội Âu Mỹ cho là tự nhiên. Ngoài sự thay đổi về tâm lý các cô cậu còn
bị dao động về các biến chuyển thể lý. Trong giai đoạn này, vai trò cha mẹ
chuyển đổi từ trách nhiệm “dạy dỗ” (teaching/nurturing) đến “hướng dẫn”
(guiding/facilitating).
Người cha người mẹ phải chấp nhận sự thay đổi từ
“tập quyền” – cha mẹ là người nắm quyền quyết định tất cả những vấn đề quan
trọng – đến “phân quyền” – cho phép con cái góp ý kiến và cùng quyết định những
gì ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc đời chúng. Đây không phải là chuyện dễ làm,
nhất là khi cha mẹ tin là mình khôn ngoan hơn, từng trải hơn, nhiều kinh nghiệm
đời hơn, v.v.. như câu tục ngữ “Trứng làm sao khôn hơn vịt”. Có thể trong một
số gia đình Việt Nam hải ngọai, cha mẹ vẫn áp dụng nguyên tắc “áo mặc sao qua
khỏi đầu” một cách hữu hiệu. Tuy nhiên, đa số gia đình chúng ta có lẽ nên “điều
chỉnh” lại một tí để có sự dung
hòa giữa Đông và Tây để bớt sự căng thẳng và xung đột giữa cha mẹ và con cái
lứa tuổi teenagers. Cha mẹ có thể hướng dẫn con đi từ sự lê thuộc, nương tựa
vào cha mẹ đến sự tương trợ. Đó là điển hình sự hòa hợp giữa Đông và Tây thích
hợp cho gia đình người Việt hải ngọai. Lứa tuổi này với những phản kháng và
chống đối là lứa tuổi “khó yêu” nhất. Tuy nhiên, đây là lúc cha mẹ cần “yêu”
con nhất. Khi con cái biết chắc và tin tưởng vào tình yêu tuyệt đối của cha mẹ
và gia đình, chúng sẽ từ từ vượt qua tất cả những khó khăn của lứa tuổi này để
thành người.
Ba nguyên tắc chúng tôi chia sẻ phần trên nghe thật đơn sơ nhưng không dễ áp
dụng, trừ khi cha mẹ tin tưởng và yêu thương hết mực đối với con cái mình. Trên
kệ tủ phòng ngủ và quanh nhà, chúng tôi chưng hình các con lúc chúng còn bé
dại. Mỗi lần chúng tôi cảm thấy bực mình, khó chịu vì chúng thì chúng tôi nhìn
vào những khuôn mặt bụ bẫm và ngây thơ đáng yêu của chúng và sự khó chịu, bực
dọc từ từ tan biến...
Song Kim
Bài được chọn đăng ở trang chính của Thư Viện Toàn Cầu