Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” thì trạng
nguyên Vũ Kiệt sinh năm 1452 ở xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn
Kinh Bắc (nay thuộc thôn Cửu yên, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh).
Thuở
nhỏ ông đã nổi tiếng là thông minh và sáng dạ. Năm 1472, lúc 20 tuổi, Vũ Kiệt
đã vượt qua thi Hương và thi Hội, được vào kỳ thi cuối cùng là thi Đình tại sân
điện, diện kiến đức vua.
Tại kỳ thi
Đình này, vua Lê Thánh Tông ra đề thi hỏi về sách lược “Đế Vương trị quốc”…
Vua Lê hỏi rằng:
Trẫm lo lắng cho cái thói tham lam làm đổi
thay phong tục, nên đặt chức đình úy để xét tra những điều gian dối của bọn
quan lại, thưởng người liêm khiết để khuyến khích làm việc tốt. Thế nhưng,
người có chức vị vẫn không trong sạch, gió thổi bóng theo.
Bọn quan lại nhỏ tự làm những điều ô nhục,
ngày càng tràn lan. Dân càng nghèo mà đóng góp ngày càng lắm, pháp luật càng
nghiêm mà kẻ gian ngày càng nhiều. Việc quân cơ, việc chính sự biến đổi rối
rắm.
Của cải xuất kho lại rơi vào tay bọn tham
nhũng, thật chẳng có lúc nào mà quá như lúc này. Hãy nêu lên cái nguyên nhân
sinh ra những tệ hại ấy và bằng cách nào để sửa đổi và có tin là sửa đổi được
không?
Vũ Kiệt trả lời rằng: (trích lược)
Thần nghe lời giải thích trong kinh Xuân Thu
“sự thành bại của quốc gia là xuất phát từ sự trung thực hay gian tà của các
quan…”
Quan lại thất đức, việc ăn hối lộ được đưa ra
ánh sáng thì thói tham lam không thể phát triển mãi được.
Ngày nay trong khi làm việc công thì thường
dùng quà cáp, tết nhất, dùng của đút lót làm lễ vật hàng ngày, giày dép, quần
áo diêm dúa, tiêu pha hoang phí, tệ tham nhũng tích tụ thành thói quen, điềm
nhiên cho đó là việc thường.
Thần thấy trong Kinh lễ có câu “đại thần giữ
phép, tiểu thần sẽ liêm chính”. Nhưng phép luật ngày nay thì người làm quan lớn
hoặc ban ơn để tỏ rằng mình là người hiểu biết, hoặc rêu rao cái danh để cho
cấp dưới cầu cạnh, sai bảo người khác, ban bố mệnh lệnh đều trái với lẽ phải,
khinh trọng thiên lệch. Khi tìm được chỗ hở thì gây ra tệ lậu bán buôn, hoặc
không giữ chắc của công, hoặc lấy của công để vun vén cho mình.
Thần thấy tuy bệ hạ nghiêm khắc trong việc tra
xét kẻ gian, tín cẩn biểu dương người tốt nhưng chưa đưa ra bộ mặt của đám tiểu
nhân được…
Thần
mong bệ hạ hãy tuyển chọn những người công minh trong sạch và ngay thẳng, lấy
danh vị giao cho họ trọng trách…
Nếu như các
bậc trưởng quan chẳng phải là người tốt mà là muốn bọn quan lại cấp dưới phải
sống trong sạch, thế chẳng khác nào nước đầu nguồn đục mà mong cho dòng trong!
Kế sách chấn
hưng giáo dục
Nhà Vua hỏi rằng:
Sách xưa có
câu: “Thầy nghiêm thì việc học đạo mới được tôn kính”. Nhưng hiện tại nho sinh
lại cảm thấy xấu hổ khi đến học thầy, cốt làm những chuyện họa may hoặc qua
tuần, qua tháng lại đổi thầy. Một nho sinh mà chưa bao giờ biết gò mình trong
việc tu chỉnh, khi đạt được danh vọng ở triều đình thì ít tuân theo lễ nghĩa.
Đạo làm thầy bị bỏ rơi sao mà lâu thế, làm thế nào để cứu vãn được…
Vũ Kiệt đã làm bài
rằng: (trích lược)
Thần nghe:
Cái học của người xưa nhất thiết phải có thầy, người thầy làm nhiệm vụ truyền
đạo, thụ nghiệp nêu lên những chỗ nhầm lẫn, giải thích những điều tôn nghi
trong sách vở. Các ngành, các nghề, ngay cả những nghề vụn vặt cũng không thể
không có thầy được, huống hồ người theo học đạo Nho?…
Là kẻ sĩ
phải thấy rằng mình được vinh hạnh, càng chăm lo việc thực học. Trong lúc chưa
thành đạt thì sống theo đạo lý thông thường để chờ thời gặp mệnh. Không để mất
phẩm chất riêng của mình. Lúc đã được tin dùng thì phải giữ đúng danh vị và làm
việc thực sự, không thể để mất cái điều mà mình hằng mong muốn, như thế mới có
thể được.
Nhưng cũng
có khá nhiều người làm thầy, tư chất kém cỏi, văn vẻ vụng về. Cái mà người học
trò cần có là sự uyên bác nhưng người thầy lại có kẻ nông xoàng, tài cán thô
thiển. Đạo làm thầy không vững như thế thì còn lạ gì khi thấy sĩ tử xấu hổ việc
đi học?…
Tâm thật đã
mất trước khi ra làm quan rồi, thì sau khi ra làm quan còn tìm sao được tiết
tháo và phong độ của họ…
Từ đó Vũ Kiệt nêu ra
phương hướng: (trích lược)
Thần mong bệ
hạ: Đạo làm thầy phải được tuyển chọn kỹ càng. Việc nuôi dạy sĩ tử phải được
nghiêm nghị đúng hướng…
Tìm nhân tài
trước hết phải chú ý đến mặt đức hạnh, phế truất kẻ phù hoa…
Nếu như dùng
lời gian dối để trau chuốt thì dứt khoát không dùng. Người dám nói thẳng… thì
có thể thu nhận.
Theo sách
“Văn hiến Kinh Bắc” thì bài “Văn sách thi Đình” của Vũ Kiệt được triều đình coi
là kiệt tác nhằm trị quốc, an dân. Bài thi này cũng là chuẩn mực cho những đời
sĩ tử sau này.
Giang sơn
toàn thịnh
Vua Lê Thánh
Tông tham khảo phép trị quốc này của Vũ Kiệt nhằm bổ sung cho bộ luật Hồng Đức,
tăng thêm sức mạnh chống tham nhũng cho bộ luật này. Việc chống tham nhũng được
tiến hành từ các quan to nhất đầu triều xuống đến địa phương.
Đồng thời qua các năm vua Lê Thánh Tông cũng
ban nhiều sắc chỉ chống tham nhũng.
Năm 1483, trong sắc chỉ ân xá của nhà vua
những kẻ tham nhũng xếp cùng tội đại nghịch không được hưởng khoan hồng của nhà
vua.
Như vậy, vua Lê Thánh Tông đã coi nạn quan
tham ngang hàng với tội đại nghịch, những tội làm tổn hại đến nền móng nhà
nước.
Chủ trương chống tham nhũng, chỉ dùng bậc hiền tài, loại trừ kẻ xu nịnh
được thực hiện từ các quan to nhất đầu triều xuống dưới, khiến các quan chức vốn
chỉ lo tiến thân bằng nịnh bợ không còn đất dụng võ nữa, nạn tham nhũng đang
tàn phá đát nước bị đẩy lùi và dẹp bỏ.
Lịch sử cho thấy thời kỳ vua Lê Thánh Tông là
thời kỳ toàn thịnh của Đại Việt, đất nước phát triển rực rỡ về mọi phương diện
kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và quân sự.
Là hiền tài của đất Việt, tên tuổi của Vũ Kiệt
còn được lưu lại trên Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội và Văn Miếu ở Bắc Ninh.
Tài năng cùng phép trị quốc của ông được các hậu thế nhiều đời sau này truyền
tụng.
Thời nay, Nếu như vận dụng phép trị quốc của
vua Lê Thánh Tông và của trạng nguyên Vũ Kiệt, thì hẳn là nhiều quốc nạn sẽ
được dẹp bỏ.