Hiển thị các bài đăng có nhãn người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn người Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

Người Việt đầu TK 20 qua hồi ký của Paul Doumer

 

NGƯỜI VIỆT ĐẦU TK 20 QUA HỒI KÝ CỦA PAUL DOUMER

Những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam của người Trung Quốc, người Pháp, người Mỹ… xưa nay không ít. Lẽ dĩ nhiên, là sách của người nước ngoài nên cách nhìn bao giờ cũng đối nghịch ít nhiều với quan điểm của chúng ta. Nhưng nếu ta biết “gạn đục khơi trong”, phê phán có chọn lọc thì đó sẽ là một nguồn tài liệu đáng quý, giúp ta nhìn nhận sự việc được khách quan hơn.

 

Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” là một tài liệu quý viết riêng về hành trình, nhận định và trải nghiệm của ông trong giai đoạn 5 năm ở Đông Dương, mà phần lớn là ở Việt Nam (thời đó gọi là An Nam).

Về con người của Paul Doumer, ông là người có kiến thức nhiều lĩnh vực, là Bộ trưởng tài chính Pháp trước khi sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền. Sau này ông còn làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Quyển “Xứ Đông Dương” ghi lại nhiều nhận định của ông về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, hành chính, con người, văn hóa… ở những nơi ông đi qua.

 

Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào trồng. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên có điện.

Paul Doumer hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp. Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa.

Một số trích đoạn trong “Xứ Đông Dương” nói về người Việt Nam trong giai đoạn giao thời giữa thế kỉ 19 và 20:

Nói về người Việt:

Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không thể chống lại được họ. Không một dân tộc nào trong Đế quốc các xứ Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam.

Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều thông minh, cần cù và dũng cảm. Người lính An Nam là một người lính giỏi, có kỷ luật và dũng cảm. Họ cũng là những người lao động mẫu mực, những nông phu giỏi việc đồng áng, những người thợ lành nghề, những nghệ nhân khéo léo và thông minh.

 

So với các dân tộc khác ở châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An Nam vẫn xếp cao hơn một bậc. Vả chăng, đó là một quy luật chung mà tôi đã kiểm chứng trên khoảng 20 chủng tộc của nhân loại, và tôi cũng thấy rất đúng ở châu Âu: những người dũng cảm trong lao động cũng là những người dũng cảm trong chiến tranh; nói khác đi, can đảm là một tính cách thống nhất.

Nếu người nào can đảm trước sự mệt mỏi, người đó sẽ can đảm trước nguy hiểm và trước cái chết.

Về thiên nhiên Nam Kỳ:

Lớp đất trẻ, tương đối nông của Nam Kỳ đặc biệt thuận lợi cho việc trồng cấy. Rất dễ canh tác trên đất đó, và đất đặc biệt phì nhiêu. Thời vụ diễn ra rất đều đặn. Thu hoạch hằng năm, chủ yếu là lúa,

Gạo là nguồn tài nguyên to lớn có thể thu được không mấy khó khăn; mỗi năm nông dân ở đây chỉ làm một vụ, và công việc đồng áng chỉ tập trung trong ba hoặc bốn tháng.

Cả đến vận tải cũng được thực hiện trong những điều kiện dễ dàng và cực rẻ.

Có lẽ không có quốc gia nào trên thế giới mà cư dân lại được thiên nhiên ưu đãi như Nam Kỳ.

Về thành phố Sài Gòn:

Ở Sài Gòn cũng có người Hoa, và nhiều là đằng khác, buôn bán to nhỏ đủ loại. Bên cạnh các cửa hiệu Pháp giống như các cửa hiệu ở tỉnh lẻ bên Pháp, tôi thấy các cửa hiệu Trung Hoa khiêm tốn hơn nhưng năng động hơn.

Tất cả mọi thứ có trong cửa hiệu của thương nhân châu Âu và cả những thứ khác nữa đều có bán tại cửa hiệu của người Hoa; nơi này sản xuất thứ gì thì nơi khác cũng sản xuất thứ đó.

Đây là một cuộc cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng. Đối với các mặt hàng rẻ tiền, đối với các công việc đơn giản, sự cạnh tranh không còn nữa vì chỉ còn lại người Hoa.

Khi ta muốn có những bộ quần áo lịch sự, một chiếc đầm đi dạo hoặc ăn tối, một bộ smoking ta cứ đặt người Hoa ở đây may những chiếc váy nhẹ, những bộ quần áo bằng vải lanh. Các dịch vụ giặt, là, mạng vá cũng là nghề của họ. Họ là những thợ khéo léo và quý hóa không từ chối một yêu cầu nào. Họ chịu làm mọi việc.

Người An Nam ở Nam Kỳ không tranh việc với họ. Nam Kỳ quá giàu có, cuộc sống quá dễ dàng nên chỉ gắng sức tí chút là người ta đã tìm được việc. Người ta thấy chỉ có sự gia tăng dân số của người An Nam có thể dẫn tới việc dòng người đổ vào thành phố và đẩy lùi người Hoa. Nhưng cho đến nay, sự gia tăng đất canh tác thậm chí còn nhanh hơn sự gia tăng dân số nên hiện tượng trên không thể xảy ra.

Sài Gòn là một thành phố nhiệt đới xinh đẹp, thành phố duyên dáng nhất vùng Viễn Đông. Một số công trình nghệ thuật ở Sài Gòn rất đẹp; tất cả đều có kích thước lớn; nhà cửa nói chung khá xinh xắn, đường phố rợp bóng cây, tất cả như bị ngập trong một đại dương xanh. nhờ nhựa sống của thiên nhiên hào phóng.

Về người Bắc Kỳ:

Người An Nam ở Bắc Kỳ cần cù chịu khó, còn hơn cả người Nam Kỳ. Họ vạm vỡ hơn, cường kiện hơn. Khí hậu thì khá khắc nghiệt; họ không được thiên nhiên ban tặng những điều kiện thuận tiện cho sản xuất và vận tải. Bị bó buộc trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi họ sống chen chúc, dân An Nam buộc một vùng đất chật hẹp phải sản sinh ra rất nhiều sản phẩm.

Công việc đồng áng làm họ mất hầu hết thời gian trong năm. Những việc vận chuyển giao thông, hộ đê, tạp dịch và những việc vặt thường nhật lấy gần hết toàn bộ thời gian còn lại. Họ làm việc tích cực không ngừng nghỉ.

Về giáo dục:

Trong các trường làng, người ta dạy các chữ cơ bản. Những quyển sách tập đọc mà họ trao vào tay lũ trẻ thì đúng là những tiểu kiệt tác thực sự, trong đó thể hiện tinh thần đạo đức của Khổng Tử với một ngôn ngữ đơn giản và đẹp, khắc ghi vào trí óc trẻ thơ.

Ta chuyển từ quyển thứ nhất, hết sức đơn giản, hết sức cơ bản, dạy cho ta những phép tắc lễ nghĩa đầu tiên, lên đến quyển thứ hai là những vấn đề rộng hơn, sau đó lên quyển ba và cứ tiếp tục như thế.

Đa phần các trường làng thấy rằng dạy chừng từ bốn đến năm quyển là đủ. Bọn trẻ học ở đó, cùng với một lượng chữ đủ để viết và trao đổi trong những tình huống đơn giản mà họ gặp nhau, những nguyên tắc đạo đức và những quy định ứng xử sẽ theo họ trong suốt cuộc đời.

Đây hiển nhiên là một nền giáo dục chưa hoàn chỉnh; tuy nhiên nó đủ để làm cho một dân tộc cần cù, gắn bó với nhiệm vụ gia đình, hạnh phúc về mọi mặt khi những vấn đề bên ngoài không khiến họ lo lắng ưu phiền.

 

 

 

Thứ Sáu, 26 tháng 1, 2024

Chỉ số IQ trung bình của người Việt Nam

 

CHỈ SỐ IQ TRUNG BÌNH CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Chỉ số IQ thường được mọi người sử dụng để nói tới độ khả năng thông minh của một con người.

Vậy Chỉ số IQ trung bình của người Việt Nam là bao nhiêu?

Chỉ số IQ trung bình của người Việt ở mức 96 (theo thang điểm SD 15 của bài IQ Test quốc tế), cao hơn hầu hết những quốc gia trong khu vực và cao hơn mức bình quân của Đông Nam Á (91,3).

Thông tin này được xuất bản trên trang ASEAN DNA (sở hữu và điều hành bởi Đại học Thammasat - một trường đại học danh tiếng của Thái Lan) vừa thống kê từ một khảo sát từ nghiên cứu của ông Richard Lynn, Giáo sư danh dự ĐH Ulster (tại Anh) về chỉ số thông minh (IQ) của những quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Theo thống kê, chỉ số IQ của người Việt ở mức 96, cao hơn hầu hết những quốc gia trong khu vực (chỉ sau thông minh IQ của người Singapore là 103), và cao hơn mức bình quân Đông Nam Á (91,3).

Trong đó, chỉ số IQ của người Malaysia và Brunei đứng thứ 3 Đông Nam Á, với mức điểm là 92. Người Thái đứng thứ 4 với chỉ số IQ đạt 91. Kế tiếp là Lào, Campuchia và Indonesia với chỉ số IQ đạt mức 89. Đứng cuối danh sách trong cộng đồng ASEAN là Myanmar và Philippines với mức điểm là 86 điểm.

Người Mỹ và người Trung Quốc có mức chỉ số IQ nhỉnh hơn người Việt một chút, với mức điểm là 98.

Người Hàn Quốc sở hữu IQ khá cao nằm khoảng 106 và IQ của người Nhật là 110.

Mặc dù chỉ số IQ trung bình của người Việt Nam cao nhưng dường như điều đó chưa giúp ích nhiều cho sự phát triển nền kinh tế.

Bằng chứng là trong thời gian qua, Việt Nam vẫn là nước xuất siêu lớn, thay vì tự sản xuất, mà thậm chí từ bao lì xì, dây thun, chiếc tăm cũng nhập từ Trung Quốc và duy trì một nền kinh tế được coi là phụ thuộc trong hầu hết các lĩnh vực.

Mặc dù chỉ số IQ trung bình của người Việt Nam cao song nền kinh tế vẫn phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc, nhưng điểm đặc biệt hơn là Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có chỉ số hạnh phúc cao thuộc top đầu thế giới và các nước trong khu vực.

Cụ thể, trên những bảng xếp hạng về mức độ hạnh phúc trên thế giới, nhiều năm liền người Việt luôn có thứ hạng cao. Trong đó năm 2012, người Việt Nam được đánh giá là hạnh phúc thứ 2 trên thế giới.

 

Nguồn: https://testiq.vn/chi-so-iq-trung-binh-cua-nguoi-viet-nam-23.html