Xu hướng phổ cập đại học
Tác giả Mỹ Chico Harlan, trong bài viết “Vietnamese teens' thirst for college
outpaces country's educational system” trên tờ Washington Post, so sánh rằng
với dân số gần 89 triệu dân, Việt Nam có chưa tới 400 trường đại học và cao
đẳng, trong khi Mỹ, với dân số 310 triệu, có tới hơn 4.400 trường.
Tác giả này cũng cho biết, tỷ lệ sinh viên so với dân số, Việt Nam chỉ bằng một
nửa của Thái Lan và một phần ba của Hàn Quốc, tỷ lệ sinh viên so với dân số của
Việt Nam là 1,3% (năm 2006) , thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển,
như 70% tại Mỹ, Norway, Australia, 70%-80% ở Phần Lan, New Zeland và Sweden
(Kwiek Marek, 2008).
Nhưng sự gia tăng của số trường và số sinh viên đại học của Việt
Nam trong những năm qua bị phê phán là quá nhanh, thật ra còn xa mới đáp dứng
được nhu cầu của xã hội.
Xu hướng phổ cập đại học ở các nước không phải là ngẫu nhiên; nó phản ánh những
thay đổi sâu sắc về bản chất và chức năng của trường đại học.
Chức năng đầu tiên của trường đại học là dạy nghề, mà ngày nay ta thường nói là
“đào tạo nhân lực”. Các trường đại học Trung cổ phương Tây, như Kant mô tả có
ba Thượng khoa là Thần học, Luật học và Y học và một Hạ khoa, đó là Triết học
(các ngành khoa học xã hội và nhân văn).
Các Thượng khoa được gọi là thượng chỉ vì chúng nằm trong mối quan tâm của nhà
nước: các Thượng khoa dạy người dân tuân theo các quy tắc xã hội, nghĩa là đào
tạo các thần dân, những người thừa hành. Khoa Triết học, ngược lại, bị coi là
hạ chỉ vì nó không dạy bất kỳ điều gì khác ngoài việc sử dụng lý trí một cách
tự do. Nhà nước đặc biệt quan tâm và thường xuyên can thiệp vào nội dung
giảng dạy của các thượng khoa, còn ở hạ khoa thì nói chung để cho các giáo sư
triết học lo liệu nội dung giảng dạy của khoa mình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay,
các thượng khoa là các khoa chuyên ngành, dạy nghề, còn hạ khoa là khoa giáo
dục tổng quát, có đích khai sáng.
Các trường đại học trung cổ phương Đông cũng có bản chất dạy nghề tương tự. Mục
đích chủ yếu của giáo dục đại học ở Trung Hoa và Việt Nam, chẳng hạn, là đào
tạo quan lại cho bộ máy cai trị được xây dựng trên nền tảng Nho giáo.
Chức năng thứ hai của đại học là chức năng Khai sáng, gắn liền với bản chất của
đại học hiện đại mà cha đẻ là Immanuel Kant. Theo Kant, phần lớn nhân loại
không có khả năng sử dụng lý trí một cách tự do và Ông gọi họ là những người vị thành niên về trí tuệ. Theo Kant,
chức năng chính của đại học là khai sáng, tức là giúp người học thoát khỏi tình
trạng vị thành niên về trí tuệ để "sử dụng tri thức của mình là không cần
sự chỉ dẫn của người khác." Ý tưởng của Kant được Humboldt hiện thực hóa
lần đầu tiên tại Berlin. Trường đại học Khai sáng là đại học tinh hoa.
Chức năng thứ ba của đại học là chức năng sản xuất, gắn liền với sự hình thành
và lớn mạnh của nền kinh tế tri thức. Đây là một chức năng tương đối mới. Trước
kia, trong nền kinh tế truyền thống, nhiệm vụ của đại học là chuẩn bị cho quá
trình sản xuất bằng cách đào tạo nhân lực. Ngày này, trong nền kinh tế tri
thức, trường đại học trở thành một mắt xích quan trọng, nếu không nói là quan
trọng nhất, của quá trình sản xuất.
Đối với các ngành sản xuất có công nghệ cao, các công đoạn sản xuất quan trọng
nhất - nghiên cứu, thiết kế và thử nghiệm – đều được thực hiện chủ yếu ở trường
đại học. Trường đại học hoàn thiện qui trình sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh,
còn các nhà máy chỉ có nhiệm vụ nhân bản các sản phẩm hoàn chỉnh ấy mà thôi.
Chức năng thứ tư của trường đại học là chức năng phát triển cá nhân. Chức năng
này mới chỉ trở thành quan trọng trong thời gian gần đây, đặc biệt ở các xã hội
đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Điều này cũng tương tự như việc
làm đẹp.
Trong một xã hội có trình độ phát triển thấp, việc làm đẹp là xa xỉ đối với đại đa số người dân. Nhưng khi xã hội trở nên sung túc hơn, việc làm đẹp trở nên phổ biến.
Nhưng nhu cầu làm đẹp không chỉ dừng ở các khía cạnh vật chất, hữu hình,
mà còn thể hiện ở cả phương diện tinh thần, đặc biệt là về mặt trí tuệ. Con
người trong xã hội càng phát triển càng có nhu cầu hiểu biết, không phải để trở
thành “nhân lực chất lượng cao”, mà nhằm tự hoàn thiện. Nhiều người đã có bằng
cấp và việc làm vẫn đăng ký học các chuyên ngành khác ở bậc đại học và sau đại
học.
Nhu cầu về “học hỏi phát triển cá nhân” đang tăng lên không ngừng tại hầu hết
các nước và việc đáp ứng nhu cầu ấy thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng phổ cập đại
học và trên thực tế biến giáo dục thành một ngành dịch vụ đầy hứa hẹn.
Đối với Việt Nam thì chiến lược phát triển giáo dục đại học là vấn đề lớn nhằm góp
phần quan trọng để đưa nước ta tiến kịp theo thời đại.