Cái váy của người đàn bà đất Bắc không biết xuất hiện từ bao giờ,
nhưng đến khi nhà Minh xâm lăng Việt Nam vào năm 1414, thì ngay sau đó “bọn
Hoàng Phúc muốn bắt dân ta đồng hóa với người Tàu, cấm con trai con gái không
được cắt tóc, đàn bà con gái phải mặc áo ngắn quần dài theo kiểu người Tàu,
nghĩa là không được mặc váy như trước.
Váy là đồ mặc che nửa thân người phía dưới của người đàn bà xứ Bắc
ngày xưa. đúng như người bình dân của ta đã mô tả trong một câu đố như sau:
Vừa bằng cái thúng mà thủng hai đầu,
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
Bên ta thì có, bên Tàu thì không.
Đến năm 1665 đời vua Lê Huyền Tông, nhà vua lại ra sắc dụ cấm đàn
bà con gái mặc quần theo kiểu Tàu mà trở lại mặc váy theo y phục truyền thống
của dân tộc. Vậy là, sau 250 năm, người đàn bà xứ Bắc lại mặc váy như trước
thời kỳ bị quân Minh xâm lược bắt phải đồng hóa theo kiểu ăn mặc của đàn bà
Tàu. Đó là tình trạng ở đất Bắc tức từ Thanh Hóa trở ra. Tình trạng ở phía nam
đèo Ngang tức từ Quảng Bình trở vào lại khác.
“Vào khoảng năm 1744 chúa Võ Vương ở phương Nam bắt dân gian cải
cách y phục. Theo giáo sĩ Koffler thì chúa bắt bỏ lối quần áo thô bỉ của người
Đàng Ngoài, mà châm chước theo lối quần áo của người Tàu. Có lẽ từ bấy giờ,
người đàn bà Đàng Trong bắt đầu mặc áo gài khuy và mặc quần, mà không mặc áo
thắt vạt và mặc váy như người đường ngoài nữa.”
Vậy có thể nói, từ đời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát trở về sau, phụ
nữ Đàng Trong dưới quyền chúa Nguyễn mặc quần dài 2 ống thì người phụ nữ Đàng
Ngoài dưới quyền vua Lê chúa Trịnh lại mặc váy.
Đến khi nhà Nguyễn dựng đế nghiệp (1802), để thống nhất việc ăn mặc
cho cả nước, vua Minh Mạng (1820-1840) đã hai lần ra sắc dụ bắt dân chúng Đàng
Ngoài phải thay đổi cách ăn mặc theo người Đàng Trong. Việc cải đổi y phục của
vua Minh Mạng đã gặp phải sức kháng cự của người dân Đàng Ngoài bằng hành động
bất tuân phục và đặt ra những bài hò vè để chế diễu phản đối.
“Người xứ Bắc vốn không qui phục nhà Nguyễn . . . lại gặp phải
chính sự hà khắc cấm đoán cả về y phục, trái với lẽ thường, dân mất váy lần này
có câu ca rằng:
Tháng chín có chiếu vua ra:
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi ra bóc lột quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan ”
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi ra bóc lột quần chồng sao đang.
Có quần ra quán bán hàng,
Không quần đứng nấp đầu làng trông quan ”
Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, ghi lại chiếu dụ của vua Minh
Mệnh ban hành vào năm Đinh Dậu (1837) như sau:
“Từ sông Gianh ra Bắc, trước đây vẫn còn ăn mặc theo hủ tục. Trẫm
đã ra lệnh đổi y phục như từ Quảng Bình trở vào để phong tục thuần nhất. Lại
ban hạn rộng rãi để ai nấy có thì giờ khâu may. Nhưng đến nay, kể đã ngoài 10
năm, mà ở Đàng Ngoài bọn ngu phu, ngu phụ vẫn cứ chần chừ chưa chịu đổi thay.
Từ Quảng Bình trở vào Nam, hết thảy đã ăn mặc theo lối nhà Hán, nhà
Minh, mũ mãng, áo quần đều chỉnh tề, tươm tất. Dân Bắc Kỳ cứ ăn mặc theo lối
cũ. Đàn ông, con trai đóng khố, đàn bà, con gái mặc áo vạt khép vào nhau, dưới
thì mặc váy. Như vậy đẹp xấu ra sao, mọi sự đã rõ.
Một số nơi đã theo thói hay. Nhưng nhiều nơi vẫn duy trì hủ tục,
phải chăng cố ý trái lệnh của Trẫm. Nay truyền cho các viên tổng đốc, tuần phủ,
bố chánh, án sát các tỉnh phải giải thích, khuyên nhủ cho dân biết rõ ý của
Trẫm. Lại ban hạn trong năm nay tất cả phải thay đổi quần áo. Nếu năm tới còn
có kẻ nào ngoan cố áo quần, phải trị tội thật nặng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét