Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ tình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ tình. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2025

Bài thơ Em bảo anh đi đi


BÀI THƠ EM BẢO ANH ĐI ĐI

Tác giả Silva Kaputikyan

1,"Em bảo anh đi đi,

Sao anh không đứng lại?

Em bảo anh đừng đợi,

Sao anh lại về ngay?

Ôi lời nói gió bay,

Đôi mắt huyền đẫm lệ.

Sao mà anh ngốc thế

Không nhìn vào mắt em?"

2. Khi em yêu – anh không gắn bó

Tác giả Silva Kaputikyan

Khi em yêu – anh không gắn bó

Khi tim nguội – anh chẳng sưởi lên.

Khi em rời đi – anh không giữ lại.

Cũng không nhớ tới – khi em quên.

Anh không đo được bước ngoặt thời gian.

Anh không tin vào cơn giông sắp tới.

Giờ em không thể đến khi anh gọi.

Em đã ở bên bờ khác từ lâu.

Dịch giả khuyết danh

Bài thơ giọng điệu trữ tình vừa thủ thỉ vừa can trường của Kaputikian, có mặt trong các cuốn sổ tay của nhiều thế hệ những người yêu thơ ở Việt Nam.

Bà Silva Kaputikian sinh ngày 5/1/1919 trong một gia đình giáo viên. Bà bắt đầu in thơ từ năm 1933 và là tác giả của hơn 60 tập sách/thơ, được xuất bản bởi tiếng Nga lẫn Armenia. Thơ bà từng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.

Tháng 2/1988, khi tiếp bà tại điện Kremlin, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev nồng nhiệt thừa nhận vợ mình, bà Raisa, cực kỳ mê thơ của bà.

Silva Kaputikyan (1919 - 2006) là một nhà thơ lớn (nếu không phải là nhà thơ lớn nhất thế kỷ XX) của nước cộng hòa Armenia.

Thơ của Silva Kaputikian được đưa vào chương trình giáo dục tại Armenia. Ở thành phố Yerevan, nơi bà sinh ra, có trường học và đường mang tên bà.



Thứ Sáu, 19 tháng 1, 2024

Xuất xứ của bài thơ "Yêu" của Xuân Diệu

 

XUẤT XỨ CỦA BÀI THƠ "YÊU" CỦA XUÂN DIỆU

Trong sự nghiệp thơ ca của Xuân Diệu, bài "Yêu" có một vị trí khá đặc biệt. Nó không phải là bài thơ "bề thế", song lại được phổ biến rộng rãi bởi đã nói được những khoảnh khắc tâm tình rất riêng của các bạn trẻ.

Về xuất xứ của bài thơ này, Xuân Diệu kể: Bấy giờ ông chỉ mới chừng 19, 20 tuổi. Một buổi trưa, nhân lúc ra trông hàng cho mẹ (vốn là một cô hàng nước mắm), phải cái thời khắc vắng vẻ, chợ búa ít người qua lại, Xuân Diệu mới tìm cách trêu ghẹo cô bán hàng bên cạnh.

Cô này thấy chàng làm thơ đã chớm nổi tiếng thì giả bộ mê mải đọc sách. Xuân Diệu vờ buông lơi một câu (mà ông lấy ý của thơ Pháp) để "thăm dò":

Yêu là chết ở trong lòng một ít

Không ngờ cô bán hàng bỏ sách xuống, nguýt chàng thi sĩ "ỡm ờ" này một cái rõ dài, rồi bĩu môi, cao giọng:

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu

Như được "nối điêu", Xuân Diệu hứng khởi hẳn lên. Ông tiếp luôn:

Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết

Mặc dù mối liên quan giữa chàng thi sĩ với cô gái trẻ cũng chỉ dừng lại ở chuyện đối đáp thơ, song đó chính lại là xuất xứ của khổ đầu bài "Yêu" - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Diệu.

ST

 ------------

YÊU

Yêu, là chết ở trong lòng một ít,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu?
Cho rất nhiều, song nhận chẳng bao nhiêu:
Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết.

Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt.
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
- Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

Họ lạc lối giữa u sầu mù mịt,
Những người si theo dõi dấu chân yêu;
Và cảnh đời là sa mạc cô liêu.
Và tình ái là sợi dây vấn vít
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.

Thứ Ba, 16 tháng 1, 2024

Buổi nói chuyện thơ cuối cùng của Xuân Diệu

BUỔI NÓI CHUYỆN THƠ CUỐI CÙNG CỦA XUÂN DIỆU

Tháng 9 năm 1985, kỷ niệm 40 năm ngày Quốc khánh 2 tháng 9, Câu lạc bộ Đoàn Kết (ở đường Tràng Tiền) tổ chức cuộc nói chuyện "Thơ Việt Nam 1945-1985". Diễn giả là nhà thơ Xuân Diệu.

Tôi còn nhớ như in buổi nói chuyện hôm đó. Gọi là "Thơ hiện đại Việt Nam sau Cách mạng tới nay", nhưng lướt qua một số tên tuổi tiêu biểu, già nửa thời gian còn lại, thi sĩ quay ra phân tích, giảng giải cái hay của... thơ mình. Tất nhiên chẳng ai lấy làm ngạc nhiên về điều này (vì ông đã làm như thế nhiều lần, cả trên trang sách).

Được nghe nhà thơ lớn nói chuyện đã là vui lắm, huống hồ được nghe "chui" một số bài thơ xưa của ông ít có dịp được tái bản, lại còn thơ trong sổ "mật" chưa hề xuất bản, vui nào bằng.

Xuân Diệu thông báo chuyện trong cuộc gặp gỡ quốc tế các nhà văn ở Xôphia trước đây, ông có đọc bài thơ "Chén nước", được đồng nghiệp tán dương. Nữ thi sĩ Bungari Đimitrôva còn cho rằng đó là bài thơ hay nhất đọc buổi hôm đó.

Tiện đây, Xuân Diệu bình luôn mấy câu thơ Đimitrôva viết về cái hôn, đại thể "Nụ hôn vùi trong tóc": "Tại sao phải vùi, chữ vùi hay như thế nào? Vì nụ hôn nóng bỏng như hòn than đỏ, phải vùi vào trong tóc, chớ không nó trơn trượt, nó rơi mất" - Nguyên văn câu bình luận của nhà thơ như thế.

Mọi người vỗ tay rào rào. Nhà thơ nghiêng người, ngả cổ nâng cốc nước cam, uống một hơi, vẻ mặt mãn nguyện.

Nhưng đến giờ giải lao, hình như theo thông báo từ trước "người đi nghe nói chuyện thơ được mua thêm họa báo", ở hành lang, mọi người chen chúc nhau, cố gắng mua lấy được đôi tờ họa báo về bọc sách cho con (nên nhớ những năm tháng ấy ở ta còn khan hiếm về giấy, có được đôi tờ họa báo bọc sách, bọc vở là quý lắm, đa phần chỉ dám bọc sách vở bằng giấy báo, giấy vỏ bao xi măng mà thôi).

Không khí lộn xộn kéo dài, khi nhà thơ Xuân Diệu đã trở về bục diễn giả và tiếp tục nói chuyện thơ rồi, mà ở hành lang, những cánh tay nhao nhao giơ lên vẫn còn dày đặc.

Xuân Diệu ngán ngẩm lắc đầu. Ông lẩm bẩm, nhưng vì miệng ông ghé gần micrô, nên trong phòng, mọi người đều nghe thấy: "Mọi người đến đây để mua họa báo chứ không phải nghe thơ à?".

Mặc nhà thơ ta thán, nhiều người vẫn bỏ ngoài tai, cố gắng đạt được mục đích của mình.

Lòng ta là một cơn mưa lũ

Đã gặp lòng em là lá khoai

Thái độ của nhà thơ đã chất nhiều bực dọc. Câu thơ đọc lên nghe nặng nề, như táp vào mặt người nghe. Đột nhiên, nhà thơ to giọng:

- Lá khoai, ở miền Nam người ta gọi là lá môn, nhưng chẳng lẽ với đồng bào miền Bắc, tôi lại gọi là lá môn, là: Lòng ta là một cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em là lá môn hay sao?

Cũng chẳng cần biết ẩn ý của nhà thơ thế nào khi nói ra câu ấy, mà nghe cách giải thích ngộ quá, mọi người rộ lên cười. Tiếng cười làm cho thi sĩ hơi dịu lại, rồi chắc cũng thấy cách giải thích của mình hơi sa đà, ông nói thêm:

- Vả chăng, dùng chữ lá môn không được. Như thế làm sao vần với hai câu dưới: Mưa biếc tha hồ tuôn giọt ngọc/ Lá xanh không ướt đến da ngoài...

Tiếng cười lại rộ lên râm ran khắp phòng...

Đó là buổi nói chuyện thơ cuối cùng trước công chúng của thi sĩ, vì chỉ ba tháng sau đó, ông đã "vẫy chào cõi thực để vào hư".

Nhà thơ Xuân Diệu ra đi đến nay đã hơn hai chục năm (ông mất ngày 21/12/1985). Lớp học sinh ngày ấy giờ đã lớn, những quyển sách đã sờn, nhưng vẫn còn đâu đây một niềm tiếc thương của những người đã từng một lần được nghe ông nói chuyện thơ...

ST