BUỔI NÓI CHUYỆN THƠ CUỐI CÙNG CỦA XUÂN DIỆU
Tháng
9 năm 1985, kỷ niệm 40 năm ngày Quốc khánh 2 tháng 9, Câu lạc bộ Đoàn Kết (ở
đường Tràng Tiền) tổ chức cuộc nói chuyện "Thơ Việt Nam 1945-1985".
Diễn giả là nhà thơ Xuân Diệu.
Tôi
còn nhớ như in buổi nói chuyện hôm đó. Gọi là "Thơ hiện đại
Việt Nam sau Cách mạng tới nay", nhưng lướt qua một số tên tuổi
tiêu biểu, già nửa thời gian còn lại, thi sĩ quay ra phân tích, giảng giải cái
hay của... thơ mình. Tất nhiên chẳng ai lấy làm ngạc nhiên về điều này (vì ông
đã làm như thế nhiều lần, cả trên trang sách).
Được
nghe nhà thơ lớn nói chuyện đã là vui lắm, huống hồ được nghe "chui"
một số bài thơ xưa của ông ít có dịp được tái bản, lại còn thơ trong sổ
"mật" chưa hề xuất bản, vui nào bằng.
Xuân
Diệu thông báo chuyện trong cuộc gặp gỡ quốc tế các nhà văn ở Xôphia trước đây,
ông có đọc bài thơ "Chén nước", được đồng nghiệp tán dương. Nữ thi sĩ
Bungari Đimitrôva còn cho rằng đó là bài thơ hay nhất đọc buổi hôm đó.
Tiện
đây, Xuân Diệu bình luôn mấy câu thơ Đimitrôva viết về cái hôn, đại thể
"Nụ hôn vùi trong tóc": "Tại sao phải vùi, chữ vùi hay như thế
nào? Vì nụ hôn nóng bỏng như hòn than đỏ, phải vùi vào trong tóc, chớ không nó
trơn trượt, nó rơi mất" - Nguyên văn câu bình luận của nhà thơ như thế.
Mọi
người vỗ tay rào rào. Nhà thơ nghiêng người, ngả cổ nâng cốc nước cam, uống một
hơi, vẻ mặt mãn nguyện.
Nhưng
đến giờ giải lao, hình như theo thông báo từ trước "người đi nghe nói chuyện
thơ được mua thêm họa báo", ở hành lang, mọi người chen chúc nhau, cố gắng
mua lấy được đôi tờ họa báo về bọc sách cho con (nên nhớ những năm tháng ấy ở
ta còn khan hiếm về giấy, có được đôi tờ họa báo bọc sách, bọc vở là quý lắm,
đa phần chỉ dám bọc sách vở bằng giấy báo, giấy vỏ bao xi măng mà thôi).
Không
khí lộn xộn kéo dài, khi nhà thơ Xuân Diệu đã trở về bục diễn giả và tiếp tục
nói chuyện thơ rồi, mà ở hành lang, những cánh tay nhao nhao giơ lên vẫn còn
dày đặc.
Xuân
Diệu ngán ngẩm lắc đầu. Ông lẩm bẩm, nhưng vì miệng ông ghé gần micrô, nên
trong phòng, mọi người đều nghe thấy: "Mọi người đến đây để mua họa báo
chứ không phải nghe thơ à?".
Mặc
nhà thơ ta thán, nhiều người vẫn bỏ ngoài tai, cố gắng đạt được mục đích của
mình.
Lòng
ta là một cơn mưa lũ
Đã
gặp lòng em là lá khoai
Thái
độ của nhà thơ đã chất nhiều bực dọc. Câu thơ đọc lên nghe nặng nề, như táp vào
mặt người nghe. Đột nhiên, nhà thơ to giọng:
- Lá
khoai, ở miền Nam người ta gọi là lá môn, nhưng chẳng lẽ với đồng bào
miền Bắc, tôi lại gọi là lá môn, là: Lòng ta là một cơn mưa lũ/ Đã gặp lòng em
là lá môn hay sao?
Cũng
chẳng cần biết ẩn ý của nhà thơ thế nào khi nói ra câu ấy, mà nghe cách giải
thích ngộ quá, mọi người rộ lên cười. Tiếng cười làm cho thi sĩ hơi dịu lại,
rồi chắc cũng thấy cách giải thích của mình hơi sa đà, ông nói thêm:
- Vả
chăng, dùng chữ lá môn không được. Như thế làm sao vần với hai câu dưới: Mưa
biếc tha hồ tuôn giọt ngọc/ Lá xanh không ướt đến da ngoài...
Tiếng
cười lại rộ lên râm ran khắp phòng...
Đó
là buổi nói chuyện thơ cuối cùng trước công chúng của thi sĩ, vì chỉ ba tháng
sau đó, ông đã "vẫy chào cõi thực để vào hư".
Nhà
thơ Xuân Diệu ra đi đến nay đã hơn hai chục năm (ông mất ngày 21/12/1985). Lớp
học sinh ngày ấy giờ đã lớn, những quyển sách đã sờn, nhưng vẫn còn đâu đây một
niềm tiếc thương của những người đã từng một lần được nghe ông nói chuyện
thơ...
ST