Hiển thị các bài đăng có nhãn Maketing. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Maketing. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

Câu chuyện bán hàng của 2 ông cháu

 

CÂU CHUYỆN BÁN HÀNG CỦA 2 ÔNG CHÁU

 

Thời sinh viên, để có thêm sinh hoạt phí, có đôi lần tôi đi bán hàng. Lần ấy, ông nội tôi ở quê ra đúng lúc tôi nhận việc bán hàng cho một công ty nông sản ở hội chợ triển lãm của thành phố. Tôi kéo ông đi cùng để khoe ông về sự năng động của mình.

 

Hôm ấy, tôi không bán được nhiều hàng như mong muốn. Gặp khách giàu hay khách tiềm năng, tôi khá vồn vã. Gặp khách lẻ hoặc khách nghèo, tôi hơi chán nản, thờ ơ và lạnh nhạt. Ông tôi cứ lặng lẽ đứng cạnh quan sát.

Cuối buổi chợ, tôi mời ông đi ăn cơm, uống nước. Thú thực rằng vì chào bán, quảng cáo nhiều quá nên tôi cũng khát khô cổ.

 

Ông tôi bỗng nhiên cười và nói với tôi thế này:

“Tiến ơi, ông cực kỳ ngưỡng mộ cháu! Cháu vô cùng đẳng cấp. Cháu đã khiến khách hàng cảm nhận được sự đam mê tột cùng của cháu trong công việc. Cháu có kỹ năng bán hàng đỉnh cao. Cháu chính là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực này đấy! Được xem cháu bán hàng là trải nghiệm quý giá rất tuyệt vời chưa từng có với ông!”.

 

Ông tôi vừa nói vừa hoa chân múa tay, mắt ông sáng lên, miệng nói trơn tru như bôi mỡ. Nói đến câu cuối cùng, cánh tay ông chém xuống trước mặt đầy quyết đoán, Tôi cứ há hốc mồm ra, sao ông lạ thế nhỉ? Không giống ông thường ngày.

Nhưng gần như ngay lập tức, ông tôi trở lại vẻ bình thản cố hữu, đôi mắt sáng nheo lại nhìn tôi hóm hỉnh:

 

“Cháu thấy thế nào? Có quen không?”.

Tôi ngượng nghịu, hình như lúc nãy tôi cũng bán hàng kiểu ấy.

“Ông ơi, cháu thấy người ta hay quảng cáo, bán hàng như thế nên cháu bắt chước ạ. Ông góp ý thêm cho cháu với!”

Ông trầm ngâm.

“Bán hàng là một loại giao tiếp cháu ạ. Một loại giao tiếp đặc biệt. Thế theo cháu thì khi bán hàng, người ta bán cái gì?”

 

Tôi đáp ngay:

“Dạ, ai có sản phẩm gì thì bán sản phẩm ấy thôi ông”.

Ông tôi lắc đầu:

“Cháu còn nông quá! Sản phẩm thì muôn hình vạn trạng. Nhưng cái mà mọi người bán hàng cần bán là lòng tin cháu ạ. Cháu muốn bán được hàng cho khách, cháu phải lấy được lòng tin của họ. Lòng tin luôn là cái khó lấy được, đặc biệt trong một xã hội đang mất lòng tin”.

 

Tôi bắt đầu hiểu ra đôi chút.

“Vậy làm thế nào lấy được lòng tin của khách hàng hả ông?”

“Muốn khách hàng tin, đầu tiên cháu phải hiểu sản phẩm mình đang bán. Nhưng cháu cũng phải hiểu về thị trường những sản phẩm tương tự. Cháu lại phải hiểu về tâm lý của khách hàng nữa”.

 

“Chắc cái cháu còn thiếu sót nhất là hiểu tâm lý khách hàng ông ạ”, tôi thú thật.

“Đúng vậy, đây ông chỉ nói một khía cạnh nhỏ trong nắm bắt tâm lý khách hàng, đó là ngôn ngữ quảng cáo của cháu. Ông có diễn lại cháu xem rồi đấy. Cháu thấy có đáng tin không?”.

Rồi không đợi tôi trả lời, ông nói tiếp:

“Cháu dùng quá nhiều tính từ mạnh: nào là vô cùng, cực kỳ, đam mê tột cùng, quý giá tuyệt vời, chưa từng có, đỉnh cao…” Cháu có hiểu nghĩa của những từ ấy không? “Vô cùng” chỉ dành cho những gì to lớn không có giới hạn, không thể tưởng tượng nổi, giống như vũ trụ ấy; “cực kỳ” có nghĩa là đạt đến mức không thể hơn được nữa; “tột cùng” cũng vậy. Còn “đam mê” là yêu thích đến độ thái quá, thường là những thứ không lành mạnh, yêu thích đến độ không còn nghĩ tới việc gì khác. Rồi còn “đỉnh cao”, “rất tuyệt vời” nữa… chừng ấy tính từ mạnh để cháu gây ấn tượng cho một sản phẩm phổ thông?

 

Như vậy có phải lạm dụng quá hay không? Đấy là lý do vì sao khi ông dùng những câu từ ấy để nói về cháu, cháu đã cảm thấy lạ lùng. Bởi cả hai ông cháu ta đều biết đó không phải là sự thực. Khách hàng cũng nghĩ vậy thôi”.

Tôi đã hiểu ra nhưng còn cố cãi:

“Nhưng cháu thấy bây giờ đâu đâu người ta cũng quảng cáo như thế mà, từ trên truyền hình, báo chí cho đến mạng xã hội và ngoài đời thực. Cháu có làm gì khác đâu”.

 

Ông tôi mỉm cười:

“Chính vì thế mà cháu không có gì khác người ta. Cháu muốn gây cho họ lòng tin nhưng cháu đã dùng những phương thức và từ ngữ sáo rỗng, cũ mòn. Và khách hàng sẽ nhìn cháu giống như những con buôn giảo hoạt khác. Cháu có biết là những tính từ vừa rồi nếu lạm dụng thì chẳng có mấy tác dụng gì nữa không? Những ‘vô cùng, cực kỳ, tột cùng, tuyệt vời’… và còn nhiều tính từ mạnh khác nữa, nó chỉ có giá trị khi người ta sử dụng nó đầy thận trọng và dè dặt cho một số rất ít những điều thực sự xứng đáng mà thôi”

.

Ông dừng một lát rồi nói thêm: “Ngày xưa, hồi ông còn nhỏ được chứng kiến và nghe các cụ kể lại, các cụ ghét nhất là những kẻ khoác lác, nói thánh nói tướng. Các cụ có nhiều câu để dành cho những người ấy lắm”.

“Dạ, những câu gì hả ông?”

“Cháu muốn nghe hả?”, ông cười khà khà. “Vậy cháu nghe nhé: ‘Trăm voi không được bát xáo’”.

“Nghĩa là gì ạ?”, tôi tò mò.

“Thịt voi nhạt, lại hút nước nên nấu thật nhiều mà chẳng được bát nước xáo nào ngon ngọt. Cũng như những anh chàng ba hoa khoác lác, hứa hẹn nhiều nhưng kết quả chẳng bao nhiêu”.

 

 “Ông ơi, vậy cháu phải nói thế nào ạ?”.

“Trước hết, sản phẩm của cháu phải tốt. Rồi khi đó, cháu cứ dùng ngôn từ bình thường thôi. Quan trọng là nói đúng sự thực, không tô vẽ, thổi phồng. Sản phẩm có chất lượng thì cháu bảo nó ‘tốt’, ‘dùng tốt, dùng ổn, dùng được’, chẳng hạn vậy. Cứ bình dân thôi cháu. Cháu lại cần hỏi khách hàng cho rõ để tư vấn họ mua sản phẩm phù hợp, đồng thời khuyến cáo họ về những điểm cần lưu ý khi sử dụng.

Tựu trung lại, cháu cần dùng ngôn từ phù hợp, đúng mực, thận trọng, chân thành. Vả lại, trong giao tiếp đâu chỉ dựa vào lời lẽ để gây dựng lòng tin phải không?”.

 

“Quan trọng là phải chân thành ông nhỉ?”, tôi nhìn thẳng vào ông đầy tin tưởng gật đầu.

“Đúng rồi cháu, cháu phải lo cho lợi ích của khách hàng trước. Trước mắt có thể có chút thiệt thòi, nhưng về lâu dài, đó sẽ là uy tín của cháu mà những người miệng lưỡi không có được”.

Lại thêm một bài học nữa đầy thấm thía từ ông nội khôn ngoan, tôi thầm nghĩ và cảm ơn ông.

“À, mà này”, ông như tiện thể nói thêm, “cháu đừng chỉ nói mà không làm nhé! Lại càng không nên phân biệt khách sộp, khách nghèo để đối đãi. Xây dựng lòng tin cũng từ những việc ấy đấy!”

 

“Ôi, cháu thật may mắn có ông chỉ bảo. Cháu nhất định sẽ làm theo lời ông ạ!”

Ông tôi cười, khuôn mặt hồng hào phúc hậu rạng ngời, chòm râu bạc rung rung, rồi ông nháy mắt với tôi một cái.

 

“Ông tặng cháu nốt câu này cho trọn vẹn. Cũng là từ ca dao của người Việt ta thôi:

Nói chín thì phải làm mười

Nói mười làm chín, kẻ cười người chê.

Thôi, ông cháu ta về nhỉ?”.

 

Bình Nguyên

 

 

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2024

Ứng dụng kinh tế học hành vi để xoay chuyển ý định mua hàng của người dùng

 

ỨNG DỤNG KINH TẾ HỌC HÀNH VI ĐỂ XOAY CHUYỂN Ý ĐỊNH MUA HÀNG CỦA NGƯỜI DÙNG

 

Có thể nói rằng, khách hàng đóng vai trò trung tâm trong mọi chiến lược marketing của thương hiệu. Để hiểu rõ hơn về thông tin chi tiết, nhu cầu, và sở thích của khách hàng, cũng như để hiểu rõ cách họ ra quyết định mua hàng, các chuyên gia đề xuất rằng các nhà tiếp thị cần phải có kiến thức vững chắc về Kinh tế Hành vi (Behavioral Economics).

 

Bà Melina Palm - Tác giả, podcaster và chuyên gia tiếp thị chia sẻ: "Nếu Kinh tế học và Tâm lý học có một đứa con, chúng ta sẽ có Kinh tế học hành vi." 

Lợi ích chính của Kinh tế học hành vi là khám phá cách mà người dùng thực hiện các quyết định trong thế giới thực.

Hiểu được những động lực thực sự đằng sau hành vi con người, bao gồm cả vai trò của bộ não, sẽ giúp marketer tối ưu hóa hiệu quả của các chiến lược marketing.

 

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trung bình mỗi người phải đưa ra khoảng 35.000 quyết định mỗi ngày. Đa số quyết định này dựa trên kinh nghiệm quá khứ hoặc những thói quen không tự ý thức.

Kinh tế học hành vi nhấn mạnh vào việc xác định các quy tắc và mẫu lặp lại mà tiềm thức của người dùng thường tuân theo khi họ đối diện với các lựa chọn.

 

Việc hiểu rõ những quy tắc này sẽ giúp marketer dự đoán các phản ứng, từ đó tạo ra các thông điệp phù hợp để thu hút người dùng. 4 khái niệm hành vi mà marketer có thể áp dụng vào chiến lược tiếp thị của họ.

 

1. Framing Effect

Ông Kahneman đoạt giải Nobel Kinh tế. rút ra kết luận rằng, nhận thức của chúng ta thường phụ thuộc vào môi trường bên ngoài hơn là sự thật bản chất của tình huống.

Trong một cửa hàng, nếu có hai hộp kem giống hệt nhau ngoại trừ việc một hộp ghi là “20% chất béo” và hộp còn lại là “80% không chất béo”, người tiêu dùng sẽ có xu hướng chọn sản phẩm nào hơn?

 

Logic cho thấy rằng cả hai sản phẩm có cùng hương vị và thành phần, chỉ khác nhau ở cách thương hiệu trình bày thông tin trên bao bì. Tuy nhiên, thông tin “80% không chất béo” tạo ra ấn tượng về sự lành mạnh và an toàn hơn, làm cho khách hàng cảm thấy yên tâm hơn với sản phẩm đó. Điều này cho thấy rằng cách "đóng khung" thông tin có thể ảnh hưởng đến quyết định của người tiêu dùng theo nhiều cách khác nhau.

 

2. Priming Effect

Theo các nhà tâm lý học, hiệu ứng mồi (Priming Effect) là hiện tượng tâm lý xảy ra khi quyết định của người dùng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố vô thức.

Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số từ ngữ cụ thể, hình dạng của các đối tượng trong môi trường xung quanh hoặc các hình ảnh xuất hiện trong các quảng cáo có khả năng tác động đến tốc độ phản ứng, cảm xúc và quyết định mua sắm của người dùng.

 

Ví dụ, hình ảnh một bó hoa hồng xuất hiện trong một quảng cáo vào tháng 12 có ý nghĩa khác biệt so với khi được sử dụng vào ngày 14/02. Bộ não của chúng ta tạo ra các kết nối vô thức, vì vậy marketer cần chú ý đến việc lựa chọn màu sắc và hình ảnh trong quảng cáo, bởi những yếu tố này có thể kích thích trí não của người dùng.

Một số điều marketer có thể ghi chú:

 

  • Lựa chọn cẩn thận những hình ảnh mang tính cảm xúc: ảnh chụp những khuôn mặt đang cười, đang tương tác với ống kính, chứ không phải ảnh chụp đám đông.
  • Khi quảng cáo một sản phẩm có mức chi phí cao, marketer có thể sử dụng ngôn ngữ mô tả giàu sức gợi như “đầu tư” thay vì “đắt tiền”. Điều này giúp hãng truyền tải giá trị và tầm quan trọng một cách tinh tế, đồng thời thu hút những người quan tâm đến việc đầu tư vào bản thân. 
  • Kết hợp những câu chuyện hấp dẫn, có liên quan đến sản phẩm/dịch vụ như trải nghiệm của khách hàng hoặc thử nghiệm xã hội.
  • Nếu có thể, hãy kích thích người dùng qua nhiều giác quan, đơn cử như video unbox để người dùng có thể trải nghiệm cảm giác tò mò, thích thú khi mở sản phẩm.

3. Anchoring Effect

Hiệu ứng mỏ neo (Anchoring Effect) là hiện tượng mà người dùng thường dựa vào thông tin xuất hiện đầu tiên để so sánh và đưa ra quyết định.

Ví dụ, nếu một người nói rằng chi phí thiết kế packaging A là 50 USD, người dùng sẽ sử dụng con số này như một điểm mỏ neo để so sánh với chi phí thiết kế packaging B. Số 50 USD đã tạo ra ấn tượng sâu trong tâm trí của người dùng và ảnh hưởng đến quá trình ra quyết định của họ. 

 

Hiệu ứng này thường được các marketer áp dụng trong việc định giá sản phẩm. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, khi quảng cáo các cửa hàng thường đưa ra giới hạn như "giới hạn 10 sản phẩm cho mỗi khách hàng". Điều này khiến người dùng tự hỏi về lý do tại sao thương hiệu lại chọn con số tối đa là 10.

 

Có phải việc mua 10 sản phẩm sẽ... "hời" hơn? Cách sử dụng từ ngữ này ngụ ý rằng đây là một cơ hội đặc biệt và có thể nhanh chóng hết hàng, trừ khi người dùng "nắm bắt" 10 mặt hàng ngay lúc này. 

Việc áp dụng hiệu ứng mỏ neo sẽ giúp xây dựng giá trị tham chiếu trong tâm trí của người dùng.

 

Vì vậy, hãy cân nhắc cách sử dụng từ ngữ và cách đưa ra các chương trình khuyến mãi trong quảng cáo, gán một giá trị cụ thể với một con số nhất định. Hiệu ứng mỏ neo trong Kinh tế Hành vi sẽ thúc đẩy tỷ lệ chuyển đổi cao hơn.

 

4. Tính tương đối và nhận thức về giá

Thường thì, các nhân viên cửa hàng sẽ giới thiệu các lựa chọn giá rẻ hơn nhằm thu hút sự quan tâm của người dùng, sau đó mới đưa ra các dịch vụ cao cấp hơn. Tuy nhiên, đây là một chiến lược phản tác dụng vì người dùng đã có một "mỏ neo" về giá, và điều này thay đổi cách họ nhìn nhận về mức giá. 

 

Nếu một chiếc máy giặt được ghi giá là 1.400 USD, có thể người dùng sẽ không để ý đến nó. Ngược lại, một thông điệp như "2.000 USD, nhưng hôm nay hạ giá chỉ còn 1.400 USD" sẽ tạo cảm giác rằng đây là một cơ hội hời. Đây là cách mà các cửa hàng bán lẻ thường áp dụng để tăng doanh số bán hàng.

 

Do đó, marketer có thể đưa ra các lựa chọn có mức giá cao đầu tiên để thay đổi quan điểm về giá. Sau đó, hãy giới thiệu những tùy chọn khác có giá thấp hơn nhưng ít ưu đãi và quyền lợi hơn. Chiến thuật này sẽ thay đổi cách người dùng nghĩ về mức chi phí cần bỏ ra. 

 

Kinh tế học hành vi tiết lộ những hiệu ứng thúc đẩy hành vi của người tiêu dùng. Dù người dùng tin rằng họ cân nhắc thông tin một cách khách quan, nhưng khoa học lại chứng minh rằng những cảm xúc, suy nghĩ vô thức sẽ dẫn dắt các quyết định của họ. Đó là lý do mà marketer có thể cân nhắc áp dụng các hiệu ứng kể trên vào chiến lược marketing!

 

ST