Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Nhân vật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử Nhân vật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

Vì sao Bà Triệu và Hai Bà Trưng cưỡi voi

VÌ SAO BÀ TRIỆU VÀ HAI BÀ TRƯNG CƯỠI VOI

 

Trong những trang sử Việt, hình ảnh Hai Bà Trưng phất cờ trên lưng voi chiến và Bà Triệu cưỡi voi trắng một ngà xông trận không chỉ là ký ức chiến công, mà còn là một bức thông điệp tâm linh sâu thẳm: sức mạnh thật sự của dân tộc không nằm ở gươm giáo mà ở trí tuệ, lòng trắc ẩn và sự hòa hợp với thiên nhiên.

 

Hơn hai nghìn năm sau, khoa học hiện đại đã hé lộ một sự thật khiến người Việt hôm nay giật mình: voi không chỉ là loài vật mạnh mẽ, chúng còn là những sinh vật giàu cảm xúc, có ý thức bản thân và lòng đồng cảm ngang ngửa con người.

Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy đã khiến người Việt cổ chọn voi làm “ngai vàng di động” cho các nữ anh hùng, biến loài vật thành biểu tượng bất tử của đạo đức lãnh đạo và linh khí tổ tiên.

 

Từ lâu, người Việt đã có câu: “Voi đi trước, người đi sau”. Không chỉ nói về sức mạnh thể chất, câu tục ngữ này còn ẩn chứa một triết lý sống: trí nhớ tập thể, sự dẫn dắt bằng kinh nghiệm và lòng trắc ẩn.

Khoa học ngày nay đã chứng minh điều đó qua sự hiện diện của tế bào thần kinh Von Economo – loại tế bào đặc biệt chỉ có ở người và một số ít loài, bao gồm voi. Những tế bào hình thoi này nằm ở vùng đảo trước và vỏ đai trước, nơi xử lý cảm xúc, nỗi đau xã hội và quyết định đạo đức.

Nói cách khác, voi không chỉ “cảm nhận”, chúng hiểu nỗi đau của đồng loại, nhớ khuôn mặt sau hàng chục năm xa cách, và an ủi voi con bằng những cái chạm vòi dịu dàng, những âm thanh trầm ấm như lời ru.

 

Hành vi ấy gợi nhớ đến hình ảnh Hai Bà Trưng năm 40 SCN không chọn ngựa chiến nhanh nhẹn, hung hãn, mà chọn voi chiến để dẫn đầu tám vạn quân. Voi không chạy nhanh nhưng voi nhớ đường, tránh bẫy và bảo vệ đồng đội.

Ngựa chiến biểu trưng cho cá nhân anh hùng; voi chiến lại là hình ảnh của lãnh đạo mẫu hệ, như con voi cái lớn tuổi nhất trong đàn được gọi là matriarch, người nắm giữ ký ức tập thể, dẫn dắt cả đàn qua sa mạc khô cằn bằng trực giác và lòng trắc ẩn.

 

Khi Hai Bà ngồi trên lưng voi, tay cầm cờ lệnh, các bà không chỉ chỉ huy quân đội, các bà còn thể hiện một mô hình quyền lực từ bi: mẹ dẫn dắt con, trí tuệ chiến thắng bạo lực, lòng thương dân vượt trên sức mạnh cơ bắp.

 

Hai trăm năm sau, Bà Triệu lại xuất hiện với hình ảnh còn huyền thoại hơn: cưỡi voi trắng một ngà, áo giáp vàng, tóc xõa, hò hét xông trận. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, chi tiết “voi trắng một ngà” không phải ngẫu nhiên. Trong tâm thức Á Đông, voi trắng là biểu tượng của sự thuần khiết, linh thiêng – như voi trắng Airavata chở thần Indra trong thần thoại Ấn Độ, hay voi trắng chúa Nguyễn trong nghi lễ cung đình.

Một ngà lại mang ý nghĩa âm dương hòa hợp: dương cương trong thân xác âm nhu, nữ anh hùng vẫn giữ bản chất từ bi.

 

Cưỡi voi trắng, Bà Triệu không chỉ là tướng quân, bà là hiện thân của Nữ Thần Mẫu, người kết nối đất trời, mang linh khí núi rừng để bảo vệ dân đen. Voi, trong trường hợp này trở thành cầu nối giữa người và thần linh, giữa trần thế và tổ tiên.

Hình ảnh voi còn len lỏi trong đời sống tâm linh Việt qua bao thế kỷ. Lễ rước voi trong giỗ tổ Hùng Vương, tượng voi đá ở thành Nhà Hồ, Lam Kinh, hay truyện cổ “Sự tích voi chín ngà” đều nói về một loài vật biết ơn, trả nghĩa, trường tồn.

 

Voi không chỉ chở các bà trên lưng, voi chở cả ký ức dân tộc, chở linh hồn Việt Nam qua ngàn năm bão tố. Cưỡi voi, các nữ anh hùng như khẳng định: “Ta không chiến đấu một mình, ta mang theo núi rừng, tổ tiên và lòng trắc ẩn của giống nòi.”

Ngày nay, khi khoa học chứng minh voi có ý thức bản thân, chúng nhận ra mình trong gương, khóc thương đồng loại và truyền dạy kinh nghiệm qua nhiều thế hệ, chúng ta càng thấm thía hơn tầm nhìn của cha ông.

 

Người Việt cổ đã hiểu voi sâu sắc hơn cả các nhà khoa học hiện đại. Họ không chọn voi vì sức mạnh cơ bắp, mà vì voi là hiện thân của trí tuệ cảm xúc, của lòng trắc ẩn và sự trường cửu. Đó cũng chính là bài học lãnh đạo mà Hai Bà Trưng và Bà Triệu để lại: người cầm quyền phải nhớ nguồn cội, phải biết đau với nỗi đau của dân, và phải dùng trí tuệ để dẫn dắt, không chỉ dùng bạo lực để trấn áp.

 

Hình ảnh voi chiến trong lịch sử Việt không chỉ là chiến thắng quân sự mà là một tuyên ngôn văn hóa: dân tộc ta chiến thắng bằng sự hòa hợp với thiên nhiên, bằng lòng trắc ẩn và bằng ký ức tập thể.

Hôm nay khi nhìn lại, chúng ta thấy voi không chỉ là con vật mà là linh hồn của dân tộc. Và các bà trên lưng voi, không chỉ là anh hùng mà là những nữ thần sống, mang trong mình trái tim biết yêu thương và trí tuệ biết dẫn đường.

 

Voi vẫn bước đều trong sử sách. Và các bà, mãi mãi trên lưng voi, dẫn dắt chúng ta về với cội nguồn.

 

Mỹ Mỹ

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

Những người phụ nữ đã viết nên câu chuyện hòa bình

 

NHỮNG NGƯỜI PHỤ NỮ ĐÃ VIẾT NÊN CÂU CHUYỆN HÒA BÌNH

Từ mái tóc dài xanh mướt tuổi đôi mươi, những người phụ nữ ấy đã tết lại thành niềm tin son sắt: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”. Trong lời Bác dạy, họ tìm thấy lý tưởng để sống, để chiến đấu, để hy sinh vì độc lập, tự do và sự lớn mạnh của Tổ quốc.

Người bước vào bàn đàm phán quốc tế, mang theo khí phách của một dân tộc anh hùng; người âm thầm vận động thanh niên giữa lòng đô thị bị kiểm soát; chỉ huy lực lượng trong lòng địch; người gài mìn hẹn giờ, tiêu diệt và gieo kinh hoàng vào sào huyệt quân thù. Họ là những tượng đài sống - hiện thân của lòng kiên trung, bản lĩnh, sự thông minh và đức hy sinh của người phụ nữ Việt Nam.

Cùng với đồng chí, đồng đội của mình, họ đã viết nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, góp phần mở ra cánh cửa và đặt nền móng để thế hệ hôm nay có thể viết tiếp câu chuyện hòa bình.

Đó là: Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó Chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa và Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Lài. Ba con người, ba cuộc đời - đều tỏa sáng bằng những công việc, thành tích mang đậm dấu ấn riêng, nhưng tất cả cùng được soi rọi bởi một ngọn nguồn: Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Mang dáng hình đất nước đến Hội nghị Paris

“Chúng tôi không chỉ đi theo cách mạng bằng trái tim của người yêu nước, mà còn bằng lý trí của người tin vào chân lý” là lời khẳng định của bà Nguyễn Thị Bình, người phụ nữ duy nhất ký tên vào bản hiệp định Paris lịch sử chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình cho Việt Nam.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bà đã kiên định với lý tưởng cách mạng từ những ngày đầu tham gia kháng chiến. Người phụ nữ nhỏ bé nhưng mang trong mình khí phách và tầm vóc của cả thế hệ: Đoàn kết, bản lĩnh và đầy trí tuệ.

Ở tuổi 99, nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình vẫn toát lên thần thái điềm tĩnh, minh triết với bản lĩnh thép, như trong những thước phim tư liệu khi bà đảm nhiệm vai trò Trưởng đoàn đàm phán của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam tại Hội nghị Paris (1968-1973). Khi đó, truyền thông phương tây ví khả năng đàm phán của bà như “khiêu vũ giữa bầy sói” và trân trọng gọi bà là Madame Bình.

Ánh sáng cách mạng giữa đêm đen đô thị

Trong căn phòng yên tĩnh, chúng tôi xin phép được ngồi cạnh bà để phỏng vấn. Mặc áo vest trắng ngà, môi tô son đỏ, ánh mắt kiên định, giọng ấm và vang, đôi bàn tay nồng ấm của bà đã nắm tay tôi trong suốt cuộc trò chuyện rất lâu, vừa trân trọng lại thật gần gũi.

Với sự hỗ trợ của cô con dâu - nhà giáo Mai Thục Trinh (vì có lúc bà nghe không rõ), chúng tôi đã trò chuyện với Madame Bình về những dấu mốc không quên trong cuộc đời cách mạng của bà.

Bà Nguyễn Thị Bình sinh năm 1927 tại Sa Đéc (cũ), nay là tỉnh Đồng Tháp, tên khai sinh là Nguyễn Thị Châu Sa, trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Mẹ bà là cụ Phan Thị Châu Lan - con gái của nhà yêu nước Phan Chu Trinh. Cha bà là cụ Nguyễn Đông Hợi, từng là viên chức trong ngành trắc địa, được điều qua Campuchia làm việc cho nên cả gia đình cũng chuyển đến sống tại thủ đô Phnôm Pênh.

Thời niên thiếu, bà theo học tại Trường Lycée Sisowath - ngôi trường trung học danh tiếng bậc nhất ở xứ sở Chùa tháp, giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Pháp. Ngay từ khi còn nhỏ, cô bé Châu Sa đã thể hiện tư chất thông minh, học rất giỏi, nhất là môn Toán và cũng đã sớm bộc lộ tinh thần yêu nước, lòng tự trọng dân tộc mỗi khi tranh luận, thậm chí sẵn sàng ẩu đả với bạn học nếu nghe thấy họ nói xấu người giúp việc là “Annamite” (An Nam-mít, hàm ý kỳ thị, khinh miệt).

Năm 1945, cụ Hợi đưa gia đình trở về nước rồi vào chiến khu D tham gia kháng chiến; được phân công làm Trưởng ban Công binh Nam Bộ, đơn vị chuyên sản xuất vũ khí cho quân đội.

Cha bận việc nước, mẹ lại mất khi Châu Sa mới 16 tuổi, là chị cả trong gia đình, cô gái nhỏ đã sớm thay cha mẹ chăm lo cho các em, gánh vác việc nhà. Chính những năm tháng sớm trưởng thành ấy đã gieo vào tâm hồn Châu Sa hạt giống của nghị lực, tinh thần tự lập và bản lĩnh kiên cường - tiền đề để hình thành nên một “bông hồng thép” của cách mạng Việt Nam sau này.

Tham gia các hoạt động yêu nước trong phong trào sinh viên, học sinh từ cuối những năm 1940 với bí danh là Yến Sa, đến năm 1948, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong vỏ bọc một giáo viên dạy Toán và tiếng Pháp với tên mới là Nguyễn Thị Xuân, bà đã có thời gian vừa dạy học ở Sài Gòn vừa hoạt động cách mạng.

Khi tổ chức điều ra bắc, bà đổi tên thành Nguyễn Thị Bình (để giữ bí mật và thể hiện khát vọng hòa bình); được giao phụ trách công tác đối ngoại của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam, sau đó giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam và là Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris.

Khắc ghi lời Bác Hồ dạy

Xem những thước phim về Madame Bình ở Hội nghị Paris, có lẽ tất cả mọi người, nhất là những thế hệ sinh ra khi đất nước đã hòa bình như chúng tôi đều thật sự tự hào và xúc động.

Xuất hiện với hình ảnh người phụ nữ mặc áo dài truyền thống màu hồng sậm, tóc búi gọn gàng, phong thái lịch thiệp, thái độ tự tin nhưng chừng mực, bà đã gây ấn tượng mạnh với dư luận quốc tế ngay khi bước xuống máy bay. Bà kể, đoàn đàm phán không mang theo những bài diễn văn hoa mỹ, mà mang trong tim tinh thần đoàn kết và quyết tâm sắt đá: Nhất định giành thắng lợi.

Thuộc nằm lòng các chỉ thị của Đảng, của tổ chức; với lợi thế ngoại ngữ giỏi, luôn giữ được sự bình tĩnh, tỉnh táo và thể hiện bản lĩnh khi đối diện thách thức mà không nao núng; giữa bủa vây các câu hỏi hóc búa mà không rối trí; trước sự châm biếm vẫn linh hoạt ứng phó; bà đã thuyết phục được hầu hết những nhà báo khó tính bằng khả năng đối thoại thông minh và năng lực ngoại giao kiệt xuất.

Trong rất nhiều cuộc họp báo tại Paris, Madame Bình thể hiện xuất sắc bản lĩnh và sự nhanh trí, thậm chí có lúc khiến các nhà báo quốc tế bất ngờ khi bà chất vấn ngược lại trước những câu hỏi hóc búa.

Khi chúng tôi thắc mắc “Câu hỏi nào bà thấy khó nhất trong quá trình đàm phán?”, bà bật cười rồi nhẹ nhàng kể lại: “Không có câu hỏi nào có thể làm khó chúng tôi. Bác Hồ đã căn dặn đoàn đàm phán là dĩ bất biến, ứng vạn biến, nghĩa là kiên định mục tiêu nhưng trong mọi tình huống cần linh hoạt, mềm dẻo, và quan trọng nhất là phải giữ vững niềm tin rằng ta nhất định sẽ chiến thắng.

Thí dụ khi họ hỏi Có quân đội miền bắc ở miền nam hay không? thì chúng tôi đã trả lời: Dân tộc Việt Nam là một, cho nên người Việt Nam cho dù ở bắc hay nam nhưng khi đứng trước quân xâm lược đều sẽ có trách nhiệm chiến đấu. Có những câu, họ cố tình hỏi đi hỏi lại nhiều lần, nhưng chúng tôi chỉ trả lời: Điều tôi nói đã rõ rồi, không có gì phải nói thêm”.

Gần 5 năm kiên trì đấu trí, Hội nghị Paris đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và hàng nghìn cuộc mít-tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Những con số ấy là minh chứng cho một cuộc đấu tranh ngoại giao khốc liệt nhưng đầy chính nghĩa, chúng ta đã giành thắng lợi bằng sự đoàn kết, ý chí, bản lĩnh và niềm tin vào chân lý hòa bình.

Trong suốt cuộc trò chuyện với chúng tôi, chỉ một giây phút thoáng qua, âm giọng của nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình có chút chùng xuống:

“Vì hoạt động cách mạng cho nên tôi không có thời gian chăm lo cho gia đình, có lúc không làm tròn vai trò của người vợ, người mẹ. Các con vì thế cũng thiệt thòi nhiều… Nhưng tôi cho rằng đó là sự hy sinh cần thiết”.

Nói đến đây, bà khẽ đưa ánh mắt về phía con dâu - nhà giáo Mai Thục Trinh, như tìm kiếm một sự sẻ chia, thông cảm.

Với nhiều thế hệ người Việt Nam, nữ tướng Nguyễn Thị Bình không chỉ là một nhà ngoại giao kiệt xuất, mà còn là biểu tượng cho khí phách và trí tuệ Việt Nam, người cộng sản kiên định với lý tưởng Hồ Chí Minh và con đường giải phóng dân tộc. Trên con đường ấy, ngọn lửa cách mạng tiếp tục được truyền trao, trong đó có bà Trương Mỹ Hoa, người đã dành trọn cuộc đời để cống hiến cho lý tưởng cao cả, tiếp nối và thắp sáng khát vọng hòa bình.

Nguồn: https://nhandan.vn/