BỐN HỌC THUYẾT CHI PHỐI HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG
Trong
cuốn sách “Bốn học thuyết truyền thông – Fred S. Siebert, Theodore Peterson,
Wilbur Schramm” ra đời năm 1956, được coi là cuốn sách gối đầu giường của những
ai nghiên cứu truyền thông, các học giả mở đầu cho ngành nghiên cứu hệ thống
báo chí truyền thông như Fred S. Siebert, Theodore Peterson hay Wilbur Schramm
đã khẳng định rằng thứ cốt lõi nhất chi phối hình thức và mục đích của hệ thống
truyền thông ở một quốc gia là thể chế và cấu trúc xã hội.
1. Thuyết Độc đoán.
Thuyết
Độc đoán chi phối nền truyền thông trong các triều đại phong kiến phương Tây
thế kỷ XVI, XVII: Thời Tudor ở Anh, thời Bourbon ở Phap, thời Hapsburg ở Tây
Ban Nha. Nước Ý của Mussolini và nước Đức của Hitler cũng dùng một phiên bản
của hệ thống này.
Thuyết
dộc đoán coi dân chúng đa phần như thiếu khả năng thẩm định, nên cần được
truyền đạt, tuyên truyền, giảng dạy. Thực chất, tri thức và sự thật bị quy định
bởi Nhà nước.
Thuyết
độc đoán nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thống nhất tư tưởng, bài trừ các tư
tưởng đối lập.
Trong
hệ thống độc đoán, truyền thông làm nhiệm vụ ủng hộ và xúc tiến các chính sách
của chính phủ, phục vụ nhà nước.
Thế
kỷ XVIII ở phương Tây diễn ra cuộc chuyển giao toàn diện, hệ thống truyền thông
độc đoán dần trở thành hệ thống truyền thông được vận hành theo các nguyên tắc
tự do.
Đầu
thế kỷ XVIII, hệ thống kiểm soát báo chí truyền thông dần sụp đổ. Quyển chi
phối của vua lên báo chí bị loại bỏ, nhà thờ không còn là cơ quan lãnh đạo, sự
độc quyền của nhà nước trong công tác xuất bản bị xóa bỏ. Đến cuối thế kỷ, các
nguyên tắc của chủ nghĩa tự do đã đưa quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí
vào trong các bản Hiến pháp.
2. Thuyết tự do
Thuyết
Tự do được chấp nhận ở Anh sau năm 1688, ở Mỹ; và có tầm ảnh hưởng tới các nơi khác.
Nếu
như các nhà lý thuyết độc đoán cho rằng Nhà nước là biểu hiện cao nhất trong sự
phát triển loài người, còn các nhà tự do chủ nghĩa thì bác bỏ điều này, họ chỉ
coi nhà nước như một công cụ hữu ích và cần thiết nhằm thực hiện mục đích của
các cá nhân mà thôi. Tóm lại, theo họ, xã hội, tập thể không thể đóng vai trò
quan trọng hơn các cá thể tạo dựng nên xã hội đó.
Về
bản chất của chân lý và sự thật, học thuyết này công nhận rằng cá nhân với khả
năng tư duy phân biệt phải trái đúng sai của mình, có thể tìm được sự thật và
chân lí.
Các
cá nhân phải tìm chân lí qua các hoạt động tư duy, tìm căn cứ, hình thành lập
luận, tìm luận cứ, kiểm tra các giả định… Tức là sự thật và chân lí phải được
từng người xác minh, và người đó phải tìm được đủ thông tin cần thiết để phán
xét, chứ không còn đợi chân lí được trao truyền từ trên xuống như trong thuyết
Độc đoán.
Các
nhà tự do chủ nghĩa tin tưởng rằng với việc phơi bày tối đa thông tin như thế,
người đọc sẽ tự có khả năng sàng lọc, loại bỏ những gì không phù hợp, và cuối
cùng, cái gì được công chúng giữ lại sau cùng chính là cái đúng đắn, theo quy
luật tự nhiên
3. Thuyết Trách nhiệm xã hội
Thuyết
tự do cho rằng Nhà nước là kẻ thù lớn nhất có thể tồn tại của tự do, một nhà
nước “đúng đắn” phải cho phép tự do hiện hữu. Còn Thuyết Trách nhiệm xã hội thì
nhấn mạnh hơn vào trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước không phải chỉ nên cho
phép tự do, mà còn phải chủ động khuyến khích và tạo điều kiện cho tự do.
Thuyết
tự do nhấn mạnh đến quyền được phát ngôn, thì Thuyết trách nhiệm xã hội nhấn
mạnh đến quyền lợi của người tiếp nhận. Thuyết Tự do đặt rất ít giới hạn lên
người phát ngôn, lên các nhà xuất bản, còn Thuyết Trách nhiệm xã hội thì yêu
cầu nhà xuất bản phải có trách nhiệm đạo đức.
Hoàn
cảnh ra đời học thuyết: Nhờ các phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp,
với sự ra đời của phát thanh, truyền hình… nền báo chí truyền thông ngày cảng
có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống xã hội.
Quyền
lực báo chí lớn mạnh nhanh chóng. Tuy vậy, “thị trường thông tin tự do” mà
thuyết tự do hướng tới lại đang bị phá vỡ, bởi ngành này đang bị chi phối bởi
một nhóm ít người. Rào cản nhập cuộc quá lớn, không nhà đầu tư mới nào đủ khả
năng gia nhập và lớn mạnh trong ngành công nghiệp truyền thông.
Chỉ
có 5 nhà xuất bản lớn chiếm phần lớn tổng số lượng phát hành tạp chí và tổng số
chi phí quảng cáo. 5 công ti khác sản xuất gần như toàn bộ số phim người Mĩ
theo dõi. 2-3 mạng lưới phát sóng lớn phục vụ toàn bộ các trạm phát sóng trên
toàn quốc. Quyền lực đang bị thâu tóm bởi một số ít người.
Truyền
thông thời đó truyền bá thông tin lệch lạc tùy theo lợi ích của ông chủ, hoặc
các tập đoàn tài trợ; truyền thông giật gân câu khách; truyền thông vi phạm
riêng tư cá nhân, hoặc góp phần làm băng hoại đạo đức xã hội…
Học
thuyết này làm hình thành nên những Bộ quy tắc về đạo đức báo chí và truyền
thông. Bộ quy tắc sớm nhất ra đời ở Mỹ năm 1923. Các bộ quy tắc của ngành điện
ảnh, ngành phát thanh, ngành truyền hình cũng lần lượt ra đời trong các bối
cảnh công chúng đã ngày một mất cảm tình với các phương tiện truyền thông.
Ủy
Ban Tự Do Báo chí đưa ra các yêu cầu cụ thể của xã hội hiện đại đối với báo chí
truyền thông, và chúng trở thành thước đo cho hoạt động của báo chí.
4. Thuyết Toàn trị Xô Viết
Hệ
thống truyền thông vận hành như một công cụ của chính quyền. Chính quyền sở hữu
toàn bộ các phương tiện truyền thông. Hệ thống truyền thông, phải thực hiện các
nhiệm vụ được nhà nước giao.
Truyền
thông nhấn mạnh vào sự thống nhất quốc gia: đẩy mạnh sự đoàn kết dân tộc. Sự đoàn
kết dân tộc và sự thống nhất tư tưởng dưới ngọn cờ Đảng luôn song hành cùng
nhau.
Báo
chí phương Tây ưa các thông tin đói lập trái chiều. Báo chí Xô Viết ưa sự nhất
quán, thống nhất. Người Mỹ chê truyền thông LX bị chi phối bởi chính quyền.
Người LX chê truyền thông Mỹ bị chi phối bởi các tập đoàn lớn. Báo chí Mỹ đưa
nhiều nguồn để độc giả phân biệt thật giả. Báo chí Xô Viết nhất quán tư tưởng
để bảo vệ và hướng dẫn người đọc. Người Mỹ chê báo chí Liên Xô không tự do.
Người LX chê báo chí Mỹ vô trách nhiệm.
Người
Liên Xô cho rằng nền truyền thông của họ là tự do, bởi định nghĩa tự do của
người theo chủ nghĩa xã hội khác với cái tự do mà phương Tây hiểu ngày nay. Khi
nói đến tự do, người phương Tây thường nghĩ ngay đến tự do khỏi Nhà nước, khỏi
sự can thiệp của chính phủ.
Còn
người Liên Xô lúc bấy giờ hưởng thụ sự tự do ngay trong khuôn khổ nhà nước, một
nhà nước vừa bảo vệ họ, vừa nâng đỡ họ. Tự do của phương Tây là đặt câu hỏi
phản biện lại hệ thống xã hội, chống lại các lề thói của hệ thống quyền lực
đang áp chế lên anh ta. Tự do của Liên Xô là được nhà nước bảo vệ và chia phần,
được đảm bảo phần quyền lợi đã phân chia mà không bị thế lực tư bản bóc lột nào
đè đầu cướp mất.
Quan
điểm chính thống cho rằng nền báo chí truyền thông Toàn trị Xô viết là nền báo
chí nhân dân, xây dựng và kiểm soát bởi người đại diện của nhân dân, góp phần
xây dựng “hình mẫu đích thực”. Còn theo quan điểm phương Tây đó là một nền báo
chí kiểm soát chặt chẽ, không phải để phục vụ nhân dân, mà để làm thay nhân dân
trong việc nhận tin, suy nghĩ, lựa chọn… ngăn chặn mọi lựa chọn chủ ý cá nhân
từ họ.
Khi
nghiên cứu, không nên nhìn nhận học thuyết này tiến bộ, học thuyết kia không,
học thuyết này xấu, học thuyết kia tốt. Xấu tốt, tiến bộ hay phản động cũng chỉ
là tương đối, việc quá ghét hoặc quá thích hệ thống nào đó có thể làm ta không
hiểu đúng và hiểu kỹ về nó, đi nhiều vào cảm xúc cá nhân và bỏ qua các chi
tiết. Mục đích của bài viết này là điểm qua các học thuyết truyền thống có ảnh
hưởng nhất, xem có những ưu và nhược điểm nào, hiểu được logic hình thành và sử
dụng của nó, qua đó đi tới nhìn nhận truyền thông một cách toàn diện và sâu sắc
hơn.
------
Fred S. Siebert là Giám đốc Trường Báo chí và Truyền thông
thuộc Đại học Illinois.
Theodore Peterson là Phó Giáo sư Báo chí và Truyền thông
tại Đại học Illinois.
Wilbur Schramm, nguyên Trưởng khoa Truyền thông của Đại học
Illinois, là Giáo sư Báo chí và Truyền thông tại Đại học Stanford. Các lý
thuyết quy phạm lần đầu tiên được đề xuất bởi Fred Siebert, Theodore Peterson
và Wilbur Schramm trong cuốn sách của họ có tên “Bốn lý thuyết về báo chí”.