Thứ Ba, 29 tháng 4, 2025

Xung quanh bạn có thể đang tồn tại những người xấu xa

 

XUNG QUANH BẠN CÓ THỂ ĐANG TỒN TẠI NHỮNG NGƯỜI XẤU XA

Xung quanh bạn có thể đang tồn tại những người xấu xa, hãy kiểm tra và đề phòng sự bất trắc

Trong cuộc sống, chúng ta luôn ước mình chỉ luôn gặp được những người tử tế, tốt bụng. Tuy nhiên cuộc đời chẳng phải màu hồng, xung quanh chúng ta vẫn có những kẻ xấu xa. Họ sẵn sàng làm điều xấu mà chẳng chút ngần ngại, làm hại nhiều người khác để đạt được mục đích của mình. Vậy làm sao để biết bạn có đang giao tiếp với những kẻ xấu xa, những người xấu tính hay không? Các dấu hiệu có thể nhận biết được họ sau một thời gian tiếp xúc:

* Bẻ cong sự thật phủ nhận thực tế

Bí mật của những lời nói dối có mục đích là bẻ cong sự thật. Có nghĩa là nếu có bất kì sự thật nào không tương thích với mục tiêu của mình, họ sẽ cố gắng áp đặt một thực tế hấp dẫn nào đấy với mọi người. Họ sẵn sàng đưa mọi thứ ra khỏi bối cảnh, “dán” chúng vào những nơi khác cho đến khi tạo ra một sự thật thay thế phù hợp với mục đích của họ.

* Giấu thông tin

Nếu tin rằng một thứ gì đó sẽ làm ảnh hưởng đến điều đang tạo ra, họ sẽ giấu bất kì thông tin nào liên quan đến việc đó. Họ cố bưng bít hoặc làm chậm trễ thông tin để trục lợi. Họ không chỉ bóp méo sự thật mà còn khiến bạn cảm thấy tội lỗi vì không tin tưởng họ.

* Người gây hiểu lầm

Nếu cảm thấy phù hợp, họ sẽ bẻ cong vài sự thật theo cách sai lệch khiến bạn cảm thấy sợ, bị tổn thương, bị tấn công, ghét hoặc không đủ năng lực. Họ biết cách chọn đúng từ để gợi lên cảm xúc mà họ dự định tạo ra cho bạn. Cuối cùng, bạn sẽ bắt đầu tin tưởng vào thông tin theo cách họ dẫn dắt. Họ có thể tạo ra kẻ thù trong tâm trí bạn bằng cách dùng những từ đơn giản. Họ có thể làm cho bạn cảm thấy như bạn đang làm điều sai trái. Lời nói là vũ khí của họ và họ biết cách xử lý chúng một cách tài tình.

* Nói dối liên tục

Nói dối là cách để những người này thể hiện mình. Họ nói dối để đạt được một mục đích nào đó và họ nói dối để làm hài lòng những người ngốc nghếch xung quanh. Mỗi khi bị bắt gặp nói dối, họ sẽ nói với bạn hàng ngàn điều khác để che đậy. Họ sẽ tỏ vẻ chân thành giải thích với bạn vì sao họ bị buộc nói dối về điều đó và thậm chí có thể sẽ khiến bạn cảm thấy có lỗi vì đã trách họ.

* Không ân hận

Những người này không bao giờ cảm thấy có lỗi với bất kì ai mà họ đã và đang làm tổn thương hay dự tính làm tổn thương. Họ xem mọi người như những con cờ trong trò chơi của họ và xem những người giỏi là những con cờ tuyệt nhất. Nếu thấy bạn có điểm tốt, họ sẽ sử dụng điều đó để trục lợi cho mình và rồi họ sẽ đối xử với bạn như rác thải trong quá trình đó.

Họ sẽ không cảm thấy có lỗi với người tốt và họ sẽ thấy cơ hội trong mỗi điểm yếu mà những người này bộc lộ.

* Trốn tránh trách nhiệm

Những kẻ xấu tính, xấu xa thường sẽ không có được một chiếc la bàn đạo đức để đưa họ đi đúng đường. Họ làm những gì mình thấy hài lòng và sẽ không bao giờ thấy có trách nhiệm với nỗi đau mà họ đã gây ra. Nếu cảm thấy cảm giác tội lỗi sẽ xuất hiện, họ sẽ bắt đầu chuyển hướng cảm giác này trước khi nó kịp hiện hình.

Họ đổ lỗi cho người khác và không biết ý nghĩa của một lời xin lỗi.

* Lôi kéo, thao túng

Họ là bậc thầy của việc lôi kéo, thao túng. Họ biết cách lên trước những bước của kế hoạch và luôn biết mục đích của lôi kéo, thao túng. Nếu muốn, họ sẽ làm bạn cảm thấy mình ngu ngốc, họ sẽ khiến bạn làm những điều mà họ không có thẩm quyền làm. Và họ biết làm thế nào để chiếm đoạt những giá trị đạt được sau đó.

* Một người bạn chỉ xuất hiện khi mọi sự thuận lợi

Sẽ có những người xuất hiện để giúp bạn, họ biết rằng điều sẽ làm là có mục đích tốt cho họ. Trong những trường hợp khác, họ chỉ bên cạnh bạn khi mọi thứ đã đâu vào đấy và lại mất tích khi mọi thứ trở nên khó khăn hơn. Bạn không nên trông đợi sự hỗ trợ từ những người này. Nếu nhận được, nên biết rằng bạn đang trở thành một quân cờ trong trò chơi của họ.

 

 

 

Thứ Hai, 28 tháng 4, 2025

Bốn học thuyết chi phối hệ thống truyền thông

 

BỐN HỌC THUYẾT CHI PHỐI HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG

Trong cuốn sách “Bốn học thuyết truyền thông – Fred S. Siebert, Theodore Peterson, Wilbur Schramm” ra đời năm 1956, được coi là cuốn sách gối đầu giường của những ai nghiên cứu truyền thông, các học giả mở đầu cho ngành nghiên cứu hệ thống báo chí truyền thông như Fred S. Siebert, Theodore Peterson hay Wilbur Schramm đã khẳng định rằng thứ cốt lõi nhất chi phối hình thức và mục đích của hệ thống truyền thông ở một quốc gia là thể chế và cấu trúc xã hội.

1. Thuyết Độc đoán.

Thuyết Độc đoán chi phối nền truyền thông trong các triều đại phong kiến phương Tây thế kỷ XVI, XVII: Thời Tudor ở Anh, thời Bourbon ở Phap, thời Hapsburg ở Tây Ban Nha. Nước Ý của Mussolini và nước Đức của Hitler cũng dùng một phiên bản của hệ thống này.

Thuyết dộc đoán coi dân chúng đa phần như thiếu khả năng thẩm định, nên cần được truyền đạt, tuyên truyền, giảng dạy. Thực chất, tri thức và sự thật bị quy định bởi Nhà nước.

Thuyết độc đoán nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thống nhất tư tưởng, bài trừ các tư tưởng đối lập.

Trong hệ thống độc đoán, truyền thông làm nhiệm vụ ủng hộ và xúc tiến các chính sách của chính phủ, phục vụ nhà nước.

Thế kỷ XVIII ở phương Tây diễn ra cuộc chuyển giao toàn diện, hệ thống truyền thông độc đoán dần trở thành hệ thống truyền thông được vận hành theo các nguyên tắc tự do.

Đầu thế kỷ XVIII, hệ thống kiểm soát báo chí truyền thông dần sụp đổ. Quyển chi phối của vua lên báo chí bị loại bỏ, nhà thờ không còn là cơ quan lãnh đạo, sự độc quyền của nhà nước trong công tác xuất bản bị xóa bỏ. Đến cuối thế kỷ, các nguyên tắc của chủ nghĩa tự do đã đưa quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí vào trong các bản Hiến pháp.

2. Thuyết tự do

Thuyết Tự do được chấp nhận ở Anh sau năm 1688, ở Mỹ; và có tầm ảnh hưởng tới các nơi khác.

Nếu như các nhà lý thuyết độc đoán cho rằng Nhà nước là biểu hiện cao nhất trong sự phát triển loài người, còn các nhà tự do chủ nghĩa thì bác bỏ điều này, họ chỉ coi nhà nước như một công cụ hữu ích và cần thiết nhằm thực hiện mục đích của các cá nhân mà thôi. Tóm lại, theo họ, xã hội, tập thể không thể đóng vai trò quan trọng hơn các cá thể tạo dựng nên xã hội đó.

Về bản chất của chân lý và sự thật, học thuyết này công nhận rằng cá nhân với khả năng tư duy phân biệt phải trái đúng sai của mình, có thể tìm được sự thật và chân lí.

Các cá nhân phải tìm chân lí qua các hoạt động tư duy, tìm căn cứ, hình thành lập luận, tìm luận cứ, kiểm tra các giả định… Tức là sự thật và chân lí phải được từng người xác minh, và người đó phải tìm được đủ thông tin cần thiết để phán xét, chứ không còn đợi chân lí được trao truyền từ trên xuống như trong thuyết Độc đoán.

Các nhà tự do chủ nghĩa tin tưởng rằng với việc phơi bày tối đa thông tin như thế, người đọc sẽ tự có khả năng sàng lọc, loại bỏ những gì không phù hợp, và cuối cùng, cái gì được công chúng giữ lại sau cùng chính là cái đúng đắn, theo quy luật tự nhiên

3. Thuyết Trách nhiệm xã hội

Thuyết tự do cho rằng Nhà nước là kẻ thù lớn nhất có thể tồn tại của tự do, một nhà nước “đúng đắn” phải cho phép tự do hiện hữu. Còn Thuyết Trách nhiệm xã hội thì nhấn mạnh hơn vào trách nhiệm của Nhà nước, Nhà nước không phải chỉ nên cho phép tự do, mà còn phải chủ động khuyến khích và tạo điều kiện cho tự do.

Thuyết tự do nhấn mạnh đến quyền được phát ngôn, thì Thuyết trách nhiệm xã hội nhấn mạnh đến quyền lợi của người tiếp nhận. Thuyết Tự do đặt rất ít giới hạn lên người phát ngôn, lên các nhà xuất bản, còn Thuyết Trách nhiệm xã hội thì yêu cầu nhà xuất bản phải có trách nhiệm đạo đức.

Hoàn cảnh ra đời học thuyết: Nhờ các phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp, với sự ra đời của phát thanh, truyền hình… nền báo chí truyền thông ngày cảng có ảnh hưởng lớn lao đến đời sống xã hội.

Quyền lực báo chí lớn mạnh nhanh chóng. Tuy vậy, “thị trường thông tin tự do” mà thuyết tự do hướng tới lại đang bị phá vỡ, bởi ngành này đang bị chi phối bởi một nhóm ít người. Rào cản nhập cuộc quá lớn, không nhà đầu tư mới nào đủ khả năng gia nhập và lớn mạnh trong ngành công nghiệp truyền thông.

Chỉ có 5 nhà xuất bản lớn chiếm phần lớn tổng số lượng phát hành tạp chí và tổng số chi phí quảng cáo. 5 công ti khác sản xuất gần như toàn bộ số phim người Mĩ theo dõi. 2-3 mạng lưới phát sóng lớn phục vụ toàn bộ các trạm phát sóng trên toàn quốc. Quyền lực đang bị thâu tóm bởi một số ít người.

Truyền thông thời đó truyền bá thông tin lệch lạc tùy theo lợi ích của ông chủ, hoặc các tập đoàn tài trợ; truyền thông giật gân câu khách; truyền thông vi phạm riêng tư cá nhân, hoặc góp phần làm băng hoại đạo đức xã hội…

Học thuyết này làm hình thành nên những Bộ quy tắc về đạo đức báo chí và truyền thông. Bộ quy tắc sớm nhất ra đời ở Mỹ năm 1923. Các bộ quy tắc của ngành điện ảnh, ngành phát thanh, ngành truyền hình cũng lần lượt ra đời trong các bối cảnh công chúng đã ngày một mất cảm tình với các phương tiện truyền thông.

Ủy Ban Tự Do Báo chí đưa ra các yêu cầu cụ thể của xã hội hiện đại đối với báo chí truyền thông, và chúng trở thành thước đo cho hoạt động của báo chí.

4. Thuyết Toàn trị Xô Viết

Hệ thống truyền thông vận hành như một công cụ của chính quyền. Chính quyền sở hữu toàn bộ các phương tiện truyền thông. Hệ thống truyền thông, phải thực hiện các nhiệm vụ được nhà nước giao.

Truyền thông nhấn mạnh vào sự thống nhất quốc gia: đẩy mạnh sự đoàn kết dân tộc. Sự đoàn kết dân tộc và sự thống nhất tư tưởng dưới ngọn cờ Đảng luôn song hành cùng nhau.

Báo chí phương Tây ưa các thông tin đói lập trái chiều. Báo chí Xô Viết ưa sự nhất quán, thống nhất. Người Mỹ chê truyền thông LX bị chi phối bởi chính quyền. Người LX chê truyền thông Mỹ bị chi phối bởi các tập đoàn lớn. Báo chí Mỹ đưa nhiều nguồn để độc giả phân biệt thật giả. Báo chí Xô Viết nhất quán tư tưởng để bảo vệ và hướng dẫn người đọc. Người Mỹ chê báo chí Liên Xô không tự do. Người LX chê báo chí Mỹ vô trách nhiệm.

Người Liên Xô cho rằng nền truyền thông của họ là tự do, bởi định nghĩa tự do của người theo chủ nghĩa xã hội khác với cái tự do mà phương Tây hiểu ngày nay. Khi nói đến tự do, người phương Tây thường nghĩ ngay đến tự do khỏi Nhà nước, khỏi sự can thiệp của chính phủ.

Còn người Liên Xô lúc bấy giờ hưởng thụ sự tự do ngay trong khuôn khổ nhà nước, một nhà nước vừa bảo vệ họ, vừa nâng đỡ họ. Tự do của phương Tây là đặt câu hỏi phản biện lại hệ thống xã hội, chống lại các lề thói của hệ thống quyền lực đang áp chế lên anh ta. Tự do của Liên Xô là được nhà nước bảo vệ và chia phần, được đảm bảo phần quyền lợi đã phân chia mà không bị thế lực tư bản bóc lột nào đè đầu cướp mất.

Quan điểm chính thống cho rằng nền báo chí truyền thông Toàn trị Xô viết là nền báo chí nhân dân, xây dựng và kiểm soát bởi người đại diện của nhân dân, góp phần xây dựng “hình mẫu đích thực”. Còn theo quan điểm phương Tây đó là một nền báo chí kiểm soát chặt chẽ, không phải để phục vụ nhân dân, mà để làm thay nhân dân trong việc nhận tin, suy nghĩ, lựa chọn… ngăn chặn mọi lựa chọn chủ ý cá nhân từ họ.

Khi nghiên cứu, không nên nhìn nhận học thuyết này tiến bộ, học thuyết kia không, học thuyết này xấu, học thuyết kia tốt. Xấu tốt, tiến bộ hay phản động cũng chỉ là tương đối, việc quá ghét hoặc quá thích hệ thống nào đó có thể làm ta không hiểu đúng và hiểu kỹ về nó, đi nhiều vào cảm xúc cá nhân và bỏ qua các chi tiết. Mục đích của bài viết này là điểm qua các học thuyết truyền thống có ảnh hưởng nhất, xem có những ưu và nhược điểm nào, hiểu được logic hình thành và sử dụng của nó, qua đó đi tới nhìn nhận truyền thông một cách toàn diện và sâu sắc hơn.

------

Fred S. Siebert là Giám đốc Trường Báo chí và Truyền thông thuộc Đại học Illinois.

Theodore Peterson là Phó Giáo sư Báo chí và Truyền thông tại Đại học Illinois.

Wilbur Schramm, nguyên Trưởng khoa Truyền thông của Đại học Illinois, là Giáo sư Báo chí và Truyền thông tại Đại học Stanford. Các lý thuyết quy phạm lần đầu tiên được đề xuất bởi Fred Siebert, Theodore Peterson và Wilbur Schramm trong cuốn sách của họ có tên “Bốn lý thuyết về báo chí”.

 

 

Quy tắc 37%' xác định độ tuổi kết hôn

 

QUY TẮC 37%' XÁC ĐỊNH ĐỘ TUỔI KẾT HÔN

Kết hôn là sự kiện trọng đại trong đời, nhưng không phải ai cũng biết nên nói lời thề nguyện ở tuổi nào để có hôn nhân viên mãn.

Thời gian dường như là “kẻ thù” của nhiều người khi họ luôn phải lắng nghe những câu hỏi như “Bao giờ mới lập gia đình?”, “30 tuổi rồi mà chưa có anh nào rước à?”. Dần dần, kết hôn trở thành nỗi sợ và ám ảnh.

 

Trong xã hội ngày nay, khi việc chọn lựa bạn đời trở nên tự do hơn, nhiều người phụ nữ vẫn khó tìm cho mình tấm chồng ưng ý.

Dựa vào toán học và khoa học, con người phát hiện ra "quy tắc 37%" để xác định độ tuổi kết hôn lý tưởng. Theo đó, độ tuổi hoàn hảo để bước vào thánh đường là 26, theo Ghana Report.

 

Theo cuốn sách Algorithms to Live By: The Computer Science of Human Decisions (tạm dịch: Tuân thủ thuật toán: Khoa học máy tính về quyết định của con người) của 2 tác giả Brian Christian và Tom Griffiths, "quy tắc 37%" sẽ giúp một người dễ dàng và nhanh chóng tìm được nửa kia ăn ý.

Dựa theo đó, mọi người cần sàng lọc tất cả lựa chọn trong khoảng thời gian cố định (ví dụ như chọn lựa ứng viên tuyển dụng, mua xe, mua nhà,...), thời cơ hợp lý nhất để tìm một ứng viên đủ tiêu chuẩn là khi xem xét được 37% danh sách. Bởi đó là lúc họ đã nằm lòng đủ thông tin, tránh rủi ro không đáng có.

 

Thậm chí, quy tắc này còn có tác dụng trong việc chọn bạn đời. Phạm vi mà mọi người thường tìm kiếm vợ/chồng tương lai là 18-40 tuổi và mốc 37% chính xác là ở tuổi 26.

Ở chiều ngược lại, nhiều chuyên gia đồng ý độ tuổi cuối 20 là thời điểm vàng để kết hôn. Tiến sĩ Wyatt Fisher, nhà tâm lý học người Anh, cho rằng lý do khiến độ tuổi này trở nên lý tưởng là vì đó là lúc hai người đã hoàn thành việc học và bắt đầu gây dựng sự nghiệp.

 

Trong khi đó, Kelsey Torgerson, nhân viên xã hội lâm sàng đồng thời chuyên gia trị liệu hôn nhân và gia đình, cho rằng thời điểm quan trọng để tìm một người chung nhà phải đợi cho đến khi não bộ phát triển đầy đủ, nghĩa là khi 25 tuổi.

“Nếu hai người yêu nhau từ thời trung học, hãy trải nghiệm xong việc học đại học, du học hoặc có công việc ổn định. Khi đó, đôi bên đều đã tự tin đối mặt với căng thẳng, khó khăn trong cuộc sống", Torgerson nói.

 

Bên cạnh đó, Weena Cullins, chuyên gia trị liệu về mối quan hệ, cho rằng hai người lấy nhau ở độ tuổi 28 chắc chắn sẽ có hôn nhân viên mãn.

“Theo kinh nghiệm của tôi, độ tuổi kết hôn tuyệt vời đối với phụ nữ ở Mỹ là 28. Ở tuổi này, cô dâu sắp cưới sẽ có đủ nhận thức và tự tin về lựa chọn của mình. Họ đã thấu hiểu bản thân và có sự nghiệp ổn định, biết rõ điều gì mình muốn nhất ở người bạn đời và học hỏi từ sai lầm đã mắc phải trong các mối tình cũ”.

 

Đối với nam giới, bà Cullins cho rằng: “Sẽ thật tuyệt vời khi họ lập gia đình ở tuổi 32. Khi đó, phái mạnh đã có sự nghiệp và khả năng thăng tiến trong tương lai. Đồng thời, họ cũng có cơ hội phát triển về mặt xã hội và tình cảm thông qua việc sống một mình hoặc hẹn hò”.

Ở độ tuổi này, đàn ông đã đủ tinh tường để đưa ra những quyết định sáng suốt trong cuộc sống hôn nhân. Họ cũng có xu hướng có quan điểm tỉnh táo về dự định có con và vai trò trong việc cùng nuôi dạy con cái. Điều này có lợi cho mối quan hệ hôn nhân.

 

Nghiên cứu hay lời khuyên từ bên ngoài chỉ mang tính chất tham khảo, thực tế không ai có thể chắc chắn và xác định được chính xác độ tuổi nào là hoàn hảo để kết hôn và có cuộc sống gia đình hạnh phúc.

Vì vậy, không có gì là bất thường nếu ở độ tuổi 25, bạn vẫn đơn côi lẻ bóng. Tương tự, ở độ tuổi 36 vẫn độc thân, đừng đánh mất hy vọng.

 

Theo Zing